26 phút đọc

9/12/2024

CHĂM SÓC MÃN KINH VỚI Y HỌC CỔ TRUYỀN

 

Thêm tiêu đề (1).png

Thuốc thảo dược

Năm 2008, C. J. Haines và cs[13] tiến hành một RCT mù đôi đánh giá tác dụng của bài Đương quy bổ huyết thang trên triệu chứng mãn kinh ở Hong Kong. Nghiên cứu can thiệp 6 tháng trên 100 phụ nữ mãn kinh, với 50 bệnh nhân mỗi nhóm. Nhóm can thiệp dùng bài Đương quy bổ huyết thang với tỷ lệ Đương quy:Hoàng kỳ là 1:5, liều 3.0g/ngày, nhóm chứng sử dụng placebo. Kết quả, ở nhóm can thiệp số cơn bốc hỏa mức độ nhẹ giảm có ý nghĩa so với nhóm chứng. Tuy nhiên số lượng cơn bốc hỏa mức độ trung bình và nặng không giảm so sánh giữa hai nhóm. Ngoài ra, triệu chứng đạo hãn, và chất lượng cuộc sống đặc hiệu cho mãn kinh (Menopause Specific Quality of Life, MENQOL) cũng không khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm. Nghiên cứu đi đến kết luận rằng Đương quy bổ huyết thang không có hiệu quả trong quản lý triệu chứng mãn kinh.

Đến năm 2013, một nhóm nghiên cứu khác, Chi Chiu Wang và cs[22], cũng tiến hành một RCT tại Hong Kong sử dụng bài Đương quy bổ huyết thang (tỷ lệ Đươgn quy:Hoàng kỳ vẫn là 1:5) để đánh giá tác dụng giảm triệu chứng mãn kinh. Nghiên cứu so sánh 3 mức liều khác nhau của Đương quy bổ huyết thang (1.5, 3.0 và 6.0g/ngày) trong 12 tuần trên 60 phụ nữ sau mãn kinh, mỗi nhóm 20 bệnh nhân. Đánh giá kết cục chính dựa vào triệu chứng vận mạch, thang điểm Greene Climaacteric Scale và thang điểm MENQOL. Ngoài ra còn đánh giá kết cục phụ là nồng độ hormone và lipid máu. Kết quả sau 12 tuần, nhóm dùng liều 6.0g/ngày làm cải thiện có ý nghĩa trên thang điểm GCS và MENQOL. Tần suất và mức độ của cơn bốc hỏa và đạo hãn cũng giảm có ý nghĩa ở nhóm dùng liều 3.0g/ngày và 6.0g/ngày. Nồng độ FSH, LH, 17A-estradiol và bilan lipid (cholesterol, triglycerides, LDL, HDL) không khác biệt giữa 3 nhóm. Kết luận của nhóm nghiên cứu là Đương quy bổ huyết thang liều 6.0g/ngày trong 12 tuần có hiệu quả làm giảm triệu chứng mãn kinh, cải thiện chất lượng cuộc sống. Như vậy, nếu dùng Đương quy bổ huyết thang để giảm triệu chứng mãn kinh thì phải dùng liều cao mới có hiệu quả.

Nhóm nghiên cứu của Linda L.D. Zhong và cs (2013)[27] cũng thực hiện một nghiên cứu RCT mù đôi tại Hong Kong nhằm đánh giá hiệu quả của bài Nhị tiên thang (liều tương đương 62g dược liệu khô/ngày) trên triệu chứng mãn kinh ở các phụ nữ chu mãn kinh (perimenopause). Nghiên cứu tiến hành trên 108 phũ nữ chu mãn kinh có điểm MRS (Menopause Rating Scale) từ 28 điểm trở lên. Thời gian can thiệp là 12 tuần, sau đó theo dõi 3 tháng sau can thiệp. Kết cục đánh giá bằng thang điểm MRS, MENQOL và nồng độ hormone. Kết quả nhóm dùng Nhị tiên thang làm giảm có ý nghĩa tần suất và cường độ cơn bốc hỏa so với nhóm placebo. Ngoài ra, các thang điểm MRS và MENQOL đều cải thiện có ý nghĩa ở nhóm can thiệp so với nhóm placebo. Nồng độ hormone trong máu ở cả hai nhóm không khác biệt nhau. Các tác dụng ngoại ý khác là không quan sát thấy, bao gồm cả trên lâm sàng và cận lâm sàng (công thức máu, chức năng gan, thận). Thành phần bài Nhị tiên thang trong nghiên cứu bao gồm: Tiên mao 12g, Tiên linh tỳ 12g, Ba kích 9g, Đương quy 9g, Tri mẫu 10g, Hoàng bá 10g. Đến năm 2019, nhóm nghiên cứu của Yong Wang và cs[23] tại Đại học Trung y Ôn Châu, Trung Quốc đã thực hiện phân tích gộp để đánh giá hiệu quả củ Nhị tiên thang trong điều trị hội chứng mãn kinh. Nghiên cứu đưa vào phân tích 16 RCT với cỡ mẫu 1594 bệnh nhân. Kết quả phân tích gộp cho thấy Nhị tiên thang đơn độc làm cải thiện hiệu quả điều trị tốt hơn so với liệu pháp hormone thay thế. Nhóm nghiên cứu kết luận rằng chất lượng bằng chứng trung bình đến cao theo thang GRADE cho thấy hiệu quả của Nhị tiên thang trong điều trị hội chứng mãn kinh.

Tại Trung Quốc, nhóm nghiên cứu Ye Xia và cs (2012)[24] của Đại học Trung y Thiên Tân cũng thực hiện một RCT đánh giá hiệu quả của bài thuốc Thanh nga phương gia vị trong điều trị triệu chứng bốc hỏa ở phụ nữ chu mãn kinh. Nghiên cứu thiết kế là RCT mù đôi, tổng mẫu 72 phụ nữ chu mãn kinh có số cơn bốc hỏa trên 14 lần/tuần. Thời gian can thiệp 8 tuần và theo dõi sau can thiệp thêm 4 tuần. Kết cục được đánh giá dựa trên thang điểm MENQOL. Nhóm chứng dùng placebo. Kết quả thấy rằng ở nhóm can thiệp giảm có ý nghĩa điểm bốc hỏa so với nhóm chứng, đồng thời các điểm về thể chất, vận mạch (vascomotor) cũng giảm có ý nghĩa ở nhóm can thiệp so với placebo. Ngoài ra, nồng độ triglyceride máu ở nhóm can thiệp cũng giảm có ý nghĩa so với ban đầu trước can thiệp. Nhóm nghiên cứu kết luận rằng Thanh nga thang gia vị có tác dụng làm giảm cơn bốc hỏa và cải thiện chất lượng cuộc sống và có tiềm năng làm giảm triglyceride ở phụ nữ chu mãn kinh. Bài thuốc Thanh nga phương xuất xứ từ Thái Bình Huệ Dân hòa tễ cục phương từ đời Tống (960-1279). Nguyên phương bao gồm Đỗ trọng, Bổ cốt chi, Đại toán, Hồ đào nhục. Trong nghiên cứu, bài Thanh nga phương gia vị bao gồm: Đỗ trọng 10g, Bổ cốt chi 5g, Đan sâm 10g, dùng mỗi ngày 1 lần với lượng như trên. 

Đến năm 2015, cũng một nhóm nghiên cứu của Đại học Trung y Thiên Tân, Shu-fei Fu và cs[11], đã tiến hành một nghiên cứu RCT 4 nhánh mù đôi với cỡ mẫu 389 phụ nữ chu mãn kinh và sau mãn kinh. Nghiên cứu chia làm hai nhóm: nhóm A, chu mãn kinh (n=197), nhóm B, sau mãn kinh (n=192). Mỗi nhóm gồm 4 nhánh: nhánh 1 dùng bài Đan chi Thanh nga hoàn, nhóm 2 dùng Nhị chí hoàn, nhóm 3 dùng kết hợp cả Đan chi thanh nga hoàn và Nhị chí hoàn, nhánh 4 dùng placebo. Sơ đồ nghiên cứu xem hình. Thời gian can thiệp là 8 tuần, sau đó theo dõi tiếp 4 tuần. Bệnh nhân thu mẫu là các bệnh nhân có đủ tiêu chuẩn chẩn đoán chu mãn kinh hoặc sau mãn kinh, từ 40 đến 60 tuổi, và phải có ít nhất 14 cơn bốc hỏa/tuần kéo dài ít nhất 4 tuần. Đánh giá kết cục dựa trên thang điểm MENQOL. Kết quả nhóm sử dụng bài Đan chi thanh nga hoàn làm cải thiện có ý nghĩa điểm MENQOL sau 12 tuần và cải thiện triệu chứng vận mạch sau 8 tuần điều trị và cả sau đó 4 tuần theo dõi trên cả phụ nữ chu mãn kinh và sau mãn kinh. Kết hợp 2 bài thuốc cho thấy cải thiện tốt hơn placebo trên triệu chứng vận mạch sau 4 tuần theo dõi trên cả phụ nữ chu mãn kinh và sau mãn kinh. Cả hai nhóm Đan chi thanh nga và nhóm kết hợp 2 bài thuốc làm cải thiện có ý nghĩa điểm MENQOL so với nhóm chứng placebo sau 12 tuần trên phụ nữ chu mãn kinh. Với phụ nữ sau mãn kinh có cơn bốc hỏa và đạo hãn điển hình, nhóm Đan chi thanh nga cho thấy tác dụng ưu thế hơn trên nhóm sau mãn kinh sớm. Tuy nhiên, nhóm chỉ dùng Nhị chí hoàn không cho thấy cải thiện MENQOL so với nhóm placebo. Nhóm nghiên cứu đi đến kết luận rằng Đan chi thanh nga làm cải thiện chất lượng cuộc sống ở phụ nữ trong suốt thời kỳ mãn kinh. Kết hợp Đan chi thanh nga hoàn và Nhị chí hoàn hiệu quả trên phụ nữ chu mãn kinh. Bài Đan chi thanh nga hoàn, là bài gia giảm của Thanh nga hoàn xuất xứ từ Thái Bình Huệ Dân hòa tễ cục phương, bao gồm Đan sâm 10g, Tri mẫu 5g, Đỗ trọng 10g, Bổ cốt chi 5 g. Bài Nhị chí hoàn xuất xứ từ Y phương tập giải của Uông Ngang, bao gồm: Nữ trinh tử 10g, Hạn liên thảo 10g.

Hình 1. Sơ đồ tiến hành nghiên cứu của nhóm Shu-fei Fu và cs

Năm 2016, nhóm nghiên cứu của Đại học Trung y Nam Kinh, Wang Zhipeng và cs[26], tiến hành đánh giá hiệu quả của bài thuốc kinh phương Cam thảo quế chi long cốt mẫu lệ thang (xuất xứ Thương hàn tạp bệnh luận của Trương Trọng Cảnh) trên rối loạn giấc ngủ trên phụ nữ mãn kinh. Bài thuốc gồm có Quế chi 15g, Chích cam thảo 30g, Long cốt 30g, Mẫu lệ 30g, mỗi ngày uống 1 thang. Thiết kế nghiên cứu là can thiệp lâm sàng so sánh trước sau, không có nhóm chứng, cỡ mẫu là 162 phụ nữ mãn kinh. Kết quả cho thấy cải thiện mất ngủ theo thang điểm Pittsburg sleep quality index (PSQI) và triệu chứng mãn kinh theo thang điểm menopause rating scale (MRS). 

Về sử dụng độc vị trong điều trị triệu chứng mãn kinh, một nhóm nghiên cứu của Hàn Quốc thuộc Đại học Y khoa Sungkyunkwan đã công bố một RCT mù đôi về hiệu quả của Ngũ vị tử (Schisandra chinensis). Nghiên cứu với cỡ mẫu khiêm tốn 36 bệnh nhân chia hai nhóm, nhóm dùng Ngũ vị tử (n=18) và nhóm placebo (n=18). Thời gian can thiệp là 6 tuần, và sau đó theo dõi thêm 6 tuần. Đánh giá theo thang điểm Kupperman Index (KI). Kết quả thấy rằng nhóm dùng Ngũ vị tử cải thiện có ý nghĩa thang điểm KI so với placebo (p=0.042)[20]. Trước đó, nhóm nghiên cứu của Fang-Fang Yan và cs (2008)[25] cũng tiến hành đánh giá hiệu quả của chiết xuất Dâm dương hoắc trên bilian lipid máu và hormone nữ trên bệnh nhân sau mãn kinh. Nghiên cứu thiệt kế RCT mù đôi, chứng giả dược, tổng mẫu 90 bệnh nhân, can thiệp 6 tháng. Kết thúc nghiên cứu, nhóm dùng Dâm dương hoắc giảm có ý nghĩa cholesterol toàn phần và triglyceride, tăng estradiol (p<0.01).

Năm 2012, Sun Young Kim và cs[16] cũng báo cáo kết quả nghiên cứu đánh giá hiệu quả của sử dụng độ vị Hồng sâm trong điều trị hội chứng mãn kinh. Thiết kế nghiên cứu là RCT mù đôi, chứng placebo, với 72 phụ nữ sau mãn kinh chia thành hai nhóm: nhóm can thiệp dùng mỗi ngày 3g Hồng sâm (chứa 60 mg ginsenosides) trong 12 tuần, nhóm chứng dùng placebo. Kết quả nhóm can thiệp cải thiện có ý nghĩa các triệu chứng mãn kinh theo thang điểm Kupperman index và menopause rating scale. Các yếu tố nguy cơ tim mạch bao gồm cholesterol toàn phần, LDL, độ dày nội mạc động mạch cảnh đều giảm có ý nghĩa so với nhóm chứng. Nhóm nghiên cứu đi đến kết luận rằng Hồng sâm làm cải thiện triệu chứng mãn kinh và làm giảm nguy cơ tim mạch trên phụ nữ sau mãn kinh.

Hypericum perforatum (St John's wort) hay còn gọi cây Ban Âu, một loài thực vật phân bố rộng khắp thế giới, được sử dụng rộng rãi ở châu Âu trong điều trị trầm cảm. Năm 2019, nhóm nghiên cứu của Iran gồm Alieh Eatemadnia và cs[8] đã tiến hành đánh giá hiệu quả của St John's wort so với placebo trong điều trị hội chứng mãn kinh. Nhóm can thiệp (n=35) dùng 270–330 μg of H. perforatum 3 lần/ngày trong 2 tháng. Kết quả cho thấy nhóm can thiệp giảm có ý nghĩa tần số và cường độ cơn bốc hỏa, và điểm Kupperman scale giảm có ý nghĩa so với nhóm chứng. Ngoài ra, triệu chứng trầm cảm cũng giảm có ý nghĩa ở nhóm can thiệp so với nhóm chứng.

Black cohosh (Cimicifuga racemosa) một cây thuốc được sử dụng phổ biến ở Bắc Mỹ. Francesca Borrelli và Edzard Ernst (2008)[4] đã tiến hành một tổng quan hệ thống để đánh giá hiệu quả của black cohosh trong điều trị hội chứng mãn kinh. Với 6 RCT đủ tiêu chuẩn, tổng mẫu 1112 phụ nữ chu mãn kinh và sau mãn kinh. Thời gian can thiệp là 3 tháng, riêng có 1 RCT kéo dài đến 12 tháng. Các nghiên cứu đều được thiết kế RCT mù đôi. Đánh giá kết cục dựa trên thang điểm Kupperman menopausal index hoặc Menopause rating scale. Liều sử dụng từ 8mg đến 160mg chiết xuất black cohosh mỗi ngày. Kết quả phân tích đi đến kết luận rằng black cohosh có hiệu quả trong điều trị hội chứng mãn kinh, tuy nhiên mức độ bằng chứng là thấp.

Ngoài cải thiện triệu chứng bốc hỏa, thì các triệu chứng niệu dục cũng gây giảm chất lượng cuộc sống của phụ nữ mãn kinh. Một phân tích gộp của Yousef Rahmani và cs (2018)[21] đã xem xét hiệu quả của thảo dược trong cải thiện tế bào học âm đạo. Nhóm nghiên cứu đưa vào phân tích 11 RCT, trong đó có 5 RCT là sử dụng đậu nành trong can thiệp. Kết quả cho thấy thảo dược làm cải thiện tế bào học âm đạo tốt hơn so với nhóm chứng (SMD 0.48%, 95% CI 0.108-0.871). 

***

Châm cứu

Rối loạn giấc ngủ

Năm 2012, H. Hachul và cs[12] báo cáo kết quả nghiên cứu RCT mù đôi đánh giá hiệu quả của châm cứu trên 18 phụ nữ sau mãn kinh 1 năm và có mất ngủ theo tiêu chuẩn DSM-IV. Nghiên cứu không nói rõ các huyệt được châm. Kết quả thấy rằng ở nhóm châm cứu có cải thiện chất lượng giấc ngủ theo thang điểm Pittsburgh và chất lượng cuộc sống theo thang điểm WHOQOL-BREF. Sau đó vào năm 2016, nhóm nghiên cứu Hsiao-Yean Chiu và cs[6] tiến hành một tổng quan hệ thống và phân tích gộp để đánh giá hiệu quả của châm cứu trong điều trị mất ngủ trên phụ nữ chu mãn kinh và sau mãn kinh. Nghiên cứu thu thập 31 RCT với mẫu 2433 bệnh nhân. Kết quả phân tích cho thấy châm cứu cải thiện giấc ngủ (OR 0.21, 95% CI 0.14-0.31) (xem Hình 2) đồng thời làm tăng estradiol máu (MD 7.56 pg/ml, 95% CI 4.03-11.08), làm giảm FSH (MD -6.75 mUI/mL), 95% CI -12.16 đến -1.34), LH (MD -2.71 mUI/mL, 95% CI -4.22 đến -1.20). Các phương pháp châm cứu trong các nghiên cứu bao gồm thể châm, điện châm, đầu châm, kích thích điện trên huyệt, túc ngân châm. Các huyệt thường dùng nhất là Tam âm giao, Thần môn, Bách hội.

Hình 2. Hiệu quả châm cứu trên rối loạn giấc ngủ

Gần đây nhất là nghiên cứu của nhóm tác giả thuộc Đại học Trung y Thượng Hải, Cong Fu và cs (2017)[10], đã đánh giá hiệu quả cải thiện giấc ngủ của châm cứu trên phụ nữ chu mãn kinh. Nghiên cứu thiết kế RCT mù đơn, nhóm châm cứu (n=38) và nhóm giả châm (n=38). Can thiệp 10 liệu trình châm trong 3 tuần ở các huyệt Thận du (BL-3) 2 bên, Can du (BL-18) 2 bên, Kỳ môn (LR-14) một bên và Kinh môn (GB-25). Đánh giá kết cục theo thang điểm PSQI (Pittsburgh Sleep Quality Index), ISI (Insomnia Severity Index) và đo đa ký giấc ngủ qua đêm (polysomnography, PSG). Kết quả nhóm châm cứu có cải thiện chất lượng giấc ngủ trên cả thang điểm PSQI và ISI có ý nghĩa so với nhóm giả châm. Trên PSG, nhóm châm cứu làm cải thiện hiệu quả giấc ngủ và thời gian ngủ toàn bộ, ít thức giấc sau khởi phát giấc ngủ và giảm tỷ lệ phần trăm giai đoạn 1 của giấc ngủ. Nhóm nghiên cứu kết luận rằng châm cứu làm cải thiện giấc ngủ cả khách quan và chủ quan trên phụ nữ chu mãn kinh.

Triệu chứng bốc hỏa

Năm 2010, một nghiên cứu RCT mù đôi, đa trung tâm của nhóm nghiên cứu Hàn Quốc gồm có Kun Hyung Kim và cs[15] đã tiến hành đánh giá hiệu quả châm cứu trên triệu chứng bốc hỏa ở nữ mãn kinh. Phác đồ can thiệp là châm các huyệt Túc tam lý (ST 36), Tam âm giao (SP 6), Hợp cốc (LI 4), Thần môn (HT 7), Thiếu phủ (HT 8) và Quan nguyên (CV 4), lưu kim 20 phút, tổng cộng 12 liệu trình châm trong 4 tuần. Nhóm can thiệp (n=116) dùng châm cứu và chăm sóc thường quy, nhóm chứng (n=59) chỉ dùng chăm sóc thường quy. Các bệnh nhân được tiếp tục theo dõi sau kết thúc điều trị đến tuần thứ 8. Kết quả nhóm châm cứu cải thiện điểm bốc hỏa có ý nghĩa so với nhóm chứng (-16.57 so với -6.93, khác biệt 9.64 điểm, P<0.0001). Điểm MRS cũng cho thấy cải thiện có ý nghĩa ở nhóm châm cứu so với nhóm chứng. 

Năm 2014, một nhóm nghiên cứu của Ý[2]  báo cáo hiệu quả của châm cứu trên triệu chứng bốc hỏa ở phụ nữ mãn kinh. Nghiên cứu thiết kế RCT gồm 2 nhóm: nhóm can thiệp (n=50) được áp dụng các biện pháp thực dưỡng, xoa bóp, châm cứu; nhóm chứng (n=50) chỉ được áp dụng thực dưỡng và xoa bóp. Thời gian can thiệp là 6 tuần, sau đó theo dõi tiếp sau 4 tuần. Châm cứu được thực hiện Mai hoa châm 12 liệu trình, 2 lần/tuần ở vùng C7-T5 (5 phút), cường độ trung bình, kèm điện châm 30 phút 2 lần/tuần các huyệt Thượng tinh (GV 23), Thiên đột (CV 22), Toán trúc (BL 2), Khúc trì (LI-11), Hợp cốc (LI-4) với tần số 100 Hz, các huyệt Huyết hải (SP-10), Tam âm giao (SP-6) với tần số 40 Hz; các huyệt Bách hội (GV 20), Quan nguyên (CV 4), Khí hải (CV 6), Thượng cự hư (ST-37) và Thái xung (LR-3) châm bổ. Sau điều trị nhóm can thiệp cho thấy cải thiện tần số và cường độ của cơn bốc hỏa. Ngoài ra các triệu chứng khác như rối loạn giấc ngủ, nặng ngực, hồi hộp, đau trong xương, trầm cảm cũng cải thiện có ý nghĩa. 

Trong năm 2016 có đến 3 RCT đánh giá hiệu quả của châm cứu trong điều trị triệu chứng mãn kinh. Đầu tiên là nhóm nghiên cứu của Carolyn Ee và cs[9] tại Australia. Thiết kế nghiên cứu là RCT với cỡ mẫu 327 phụ nữ mãn kinh trên 40 tuổi có ít nhất 7 cơn bốc hỏa mỗi ngày và được chẩn đoán Thận âm hư theo YHCT. Các bệnh nhân được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm: nhóm châm cứu (n=163) và nhóm giả châm (n=164). Thời gian can thiệp là 8 tuần với 10 liệu trình châm. Công thức huyệt bao gồm: Chiếu hải (KI 6), Phục lưu (KI 7), Tam âm giao (SP 6), Âm khích (HT 6), Quan nguyên (CV 4), Thái xung (LR 3). Kết quả cho thấy ở nhóm châm cứu giảm điểm triệu chứng bốc hòa là 15.36, nhóm giả châm là 15.04 (MD 0.33, 95% CI -1.87 đến 2.52, P=0.77). Tác giả kết luận rằng châm cứu không ưu thế hơn giả châm trong điều trị cơn bốc hỏa ở phụ nữ mãn kinh.

Ngược lại với kết quả trên, nhóm nghiên cứu của Nancy E. Avis và cs (2016)[1] tại Mỹ báo cáo kết quả cho thấy châm cứu có hiệu quả làm giảm triệu chứng vận mạch trên phụ nữ chu mãn kinh và sau mãn kinh. Nghiên cứu tiến hành trên 209 phụ nữ chu mãn kinh và sau mãn kinh tuổi từ 45-60 có ít nhất 4 cơn bốc hỏa/ngày. Can thiệp châm cứu là 20 liệu trình trong 6 tháng đầu đối với nhóm châm cứu, và châm cứu ở 6 tháng tiếp theo đó ở nhóm chứng. Kết quả sau 6 tháng đầu tiên, nhóm châm cứu giảm 36.7% tần số cơn bốc hỏa, còn nhóm chứng tăng 6.0% (p<0.001). Sau 12 tháng, nhóm châm cứu giảm 29.4%, điều này cho thấy rằng tác dụng của châm cứu có thể duy trì kết quả kéo dài đến 6 tháng sau khi châm. Nghiên cứu kết luận rằng châm cứu làm cải thiện đáng kể triệu chứng vận mạch cũng như chất lượng cuộc sống so với không châm. Điểm khác biệt giữa 2 nghiên cứu của Mỹ và Úc là nghiên cứu của Mỹ không sử dụng công thức huyệt cố định mà tùy thuộc vào chẩn đoán của bác sĩ châm cứu, và bác sĩ này phải có từ 8 đến 33 năm kinh nghiệm về châm cứu. Trong khi nghiên cứu của Úc, sử dụng 1 phác đồ châm duy nhất, và bác sĩ châm cứu chọn vào nghiên cứu chỉ có từ 2 năm kinh nghiệm. Điều này cho thấy hiệu quả của châm cứu phụ thuộc rất lớn vào chẩn đoán và kỹ thuật châm.

Nghiên cứu thứ 3 công bố cùng năm 2016 là của nhóm Grazia Lesi và cs[17] của Ý. Nhóm nghiên cứu thu nhận 190 phụ nữ ung thư vú có triệu chứng bốc hỏa ít nhất 6 lần/ngày và hoặc có điểm Greene Climacteric Scale (GCS) ít nhất 15 điểm. Các bệnh nhân được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm: nhóm châm cứu (n=85) và nhóm chứng (n=105). Thời gian can thiệp là 12 tuần, tổng cộng 10 liệu trình, công thức huyệt tùy theo chẩn đoán YHCT, lưu kim 20 phút. Sau can thiệp các bệnh nhân dược theo dõi thêm 6 tháng. Kết quả châm cứu làm giảm có ý nghĩa điểm triệu chứng bốc hỏa ở thời điểm kết thúc điều trị, và kéo dài đến 6 tháng sau khi ngưng điều trị so với nhóm chứng (xem Hình 5). Ngoài ra chất lượng cuộc sống theo thang điểm MENQOL cũng cải thiện có ý nghĩa ở nhóm châm cứu. 

Hình 3. Thay đổi tần số triệu chứng vận mạch trên nhóm châm cứu và nhóm chứng trong 12 tháng

Hình 4. Các thay đổi về (a) điểm cơn bốc hỏa, (b) chất lượng giấc ngủ, (c) thể chất, (d) trí nhớ

Hình 5. Điểm triệu chứng bốc hỏa theo dõi tại các thời điểm trước và sau can thiệp

 

Gần đây nhất là nghiên cứu của nhóm Zhishun Liu và cs[19] vào năm 2018. Nghiên cứu thiết kế RCT mù đôi, chứng bằng giả châm với tổng mẫu là 360 bệnh nhân, mỗi nhóm 180. Can thiệp 24 lần châm cứu trong 8 tuần, và theo dõi 24 tuần sau kết thúc điều trị. Phác đồ điện châm các huyệt Tam âm giao (SP 6), Quan nguyên (RN 4), Thiên xu (ST 25), Tử cung (EX-CA 1), lưu kim 30 phút, tần số 10/50 Hz, cường độ 0.1-1 mA. Kết quả sau 8 tuần can thiệp, châm cứu làm giảm có ý nghĩa điểm MRS (Menopause Rating Scale) so với nhóm giả châm. Hơn nữa, điểm chất lượng cuộc sống theo thang MENQOL cải thiện ở nhóm châm cứu sau 8 tuần, và tiếp tục tăng lên sau 20 tuần và 32 tuần theo dõi. Các hormone FSH, LH và estradiol đều thay đổi không ý nghĩa so với trước điều trị. 

Để tổng kết về hiệu quả của châm cứu, bốn nghiên cứu phân tích gộp đã được tiến hành. Một là của nhóm Hsiao-Yean Chiu và cs (2015)[7] đánh giá trên phụ nữ mãn kinh tự nhiên. Nhóm phân tích 12 RCT với mẫu 869. Kết quả châm cứu làm giảm tần số và cường độ của cơn bốc hỏa, đồng thời cải thiện chất lượng cuộc sống theo thang MNQOL. Phân tích gộp thứ hai là của Tsai-Ju Chien và cs (2017)[5] để đánh giá hiệu quả trên bệnh nhân có ung thư vú. Nghiên cứu đưa vào phân tích 13 RCT với 844 bệnh nhân ung thư vú, tuổi trung bình 58 tuổi. Tuy nhiên, kết quả châm cứu làm giảm tần số và cường độ cơn bốc hỏa không có ý nghĩa so với nhóm chứng, nhưng các triệu chứng mãn kinh khác lại giảm có ý nghĩa. Nhóm nghiên cứu kết luận rằng có thể xem xét chỉ định châm cứu trên bệnh nhân ung thư vú có tác dụng phụ của điều trị hormone. Nghiên cứu thứ ba là của nhóm Weihan Li và cs (2018)[18] với 6 RCT từ năm 2010 đến 2016. Kết quả châm cứu làm cải thiện điểm MRS nhưng mức độ bằng chứng là chưa đủ mạnh. Tương tự, phân tích gộp của Deanna Befus và cs (2018)[3] với 3 tổng quan hệ thống và 4 RCT mới cho kết quả cải thiện triệu chứng vận mạch và chất lượng cuộc sống của châm cứu so với không châm là chưa rõ ràng.

***

Hương liệu pháp

Suy giảm chức năng tình dục cũng là một vấn đề ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của phụ nữ mãn kinh nhưng ít được quan tâm chú ý. Các triệu chứng rối loạn chức năng tình dục bao gồm: giảm hưng phấn, giảm khoái cảm, giảm sự hài lòng. Liệu pháp hormone thay thế có thể cải thiện các rối loạn tình dục, tuy nhiên lại làm tăng nguy cơ ung thư, do đó cần có chiến lược điều trị thay thế khác. Một phân tích gộp của nhóm Talat Khadivzadeh và cs (2018)[14] ở Iran đã đánh giá hiệu quả của hương liệu pháp trên suy giảm chức năng tình dục ở nữ mãn kinh. Tổng cộng 3 RCT đã được đưa vào phân tích. Kết quả ham muốn tình dục được cải thiện ở nhóm can thiệp hương liệu pháp tốt hơn nhóm chứng (SMD 0.56, P<0.001, I2=42%). Các tinh dầu dùng trong nghiên cứu bao gồm: tinh dầu lavender, tinh dầu hoa cam, hoặc hỗn hợp tinh dầu lavender, tiểu hồi, hoa hồng với hoa phong lữ.

***
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Avis, Nancy E., et al. (2016), "Acupuncture in Menopause (AIM) study: a pragmatic, randomized controlled trial", Menopause (New York, NY). 23(6), p. 626.

2. Baccetti, Sonia, et al. (2014), "Acupuncture and traditional Chinese medicine for hot flushes in menopause: a randomized trial", The Journal of Alternative and Complementary Medicine. 20(7), pp. 550-557.

3. Befus, Deanna, et al. (2018), "Management of menopause symptoms with acupuncture: an umbrella systematic review and meta-analysis", The Journal of Alternative and Complementary Medicine. 24(4), pp. 314-323.

4. Borrelli, Francesca and Ernst, Edzard (2008), "Black cohosh (Cimicifuga racemosa) for menopausal symptoms: a systematic review of its efficacy", Pharmacological Research. 58(1), pp. 8-14.

5. Chien, Tsai-Ju, et al. (2017), "Effect of acupuncture on hot flush and menopause symptoms in breast cancer-A systematic review and meta-analysis", PloS one. 12(8).

6. Chiu, Hsiao-Yean, Hsieh, Yu-Jung, and Tsai, Pei-Shan (2016), "Acupuncture to reduce sleep disturbances in perimenopausal and postmenopausal women: a systematic review and meta-analysis", Obstetrics & Gynecology. 127(3), pp. 507-515.

7. Chiu, Hsiao-Yean, et al. (2015), "Effects of acupuncture on menopause-related symptoms and quality of life in women in natural menopause: a meta-analysis of randomized controlled trials", Menopause. 22(2), pp. 234-244.

8. Eatemadnia, Alieh, et al. (2019), "The effect of Hypericum perforatum on postmenopausal symptoms and depression: A randomized controlled trial", Complementary therapies in medicine. 45, pp. 109-113.

9. Ee, Carolyn, et al. (2016), "Acupuncture for menopausal hot flashes: a randomized trial", Annals of internal medicine. 164(3), pp. 146-154.

10. Fu, Cong, et al. (2017), "Acupuncture improves peri-menopausal insomnia: a randomized controlled trial", Sleep. 40(11), p. zsx153.

11. Fu, Shu-fei, et al. (2016), "A randomized, double-blind, placebo-controlled trial of Chinese herbal medicine granules for the treatment of menopausal symptoms by stages", Menopause. 23(3), pp. 311-323.

12. Hachul, H., et al. (2012), "Acupuncture improves sleep in postmenopause in a randomized, double-blind, placebo-controlled study", Climacteric. 16(1), pp. 36-40.

13. Haines, C. J., et al. (2008), "A randomized, double-blind, placebo-controlled study of the effect of a Chinese herbal medicine preparation (Dang Gui Buxue Tang) on menopausal symptoms in Hong Kong Chinese women", Climacteric. 11(3), pp. 244-251.

14. Khadivzadeh, Talat, et al. (2018), "Aromatherapy for Sexual Problems in Menopausal Women: A Systematic Review and Meta-analysis", Journal of menopausal medicine. 24(1), pp. 56-61.

15. Kim, Kun Hyung, et al. (2010), "Effects of acupuncture on hot flashes in perimenopausal and postmenopausal women-a multicenter randomized clinical trial", Menopause. 17(2), pp. 269-280.

16. Kim, Sun Young, et al. (2012), "Effects of red ginseng supplementation on menopausal symptoms and cardiovascular risk factors in postmenopausal women: a double-blind randomized controlled trial", Menopause. 19(4), pp. 461-466.

17. Lesi, Grazia, et al. (2016), "Acupuncture as an integrative approach for the treatment of hot flashes in women with breast cancer: a prospective multicenter randomized controlled trial (AcCliMaT)", J Clin Oncol. 34(15), pp. 1795-1802.

18. Li, Weihan, et al. (2018), "Acupuncture May Improve Quality of Life in Menopausal Women: A Meta-Analysis of Randomized Controlled Trials", Complementary medicine research. 25(3), pp. 183-190.

19. Liu, Zhishun, et al. (2018), "Acupuncture for symptoms in menopause transition: a randomized controlled trial", American journal of obstetrics and gynecology. 219(4), pp. 373-e1.

20. Park, J. Y. and Kim, K. H. (2016), "A randomized, double-blind, placebo-controlled trial of Schisandra chinensis for menopausal symptoms", Climacteric. 19(6), pp. 574-580.

21. Rahmani, Yousef, et al. (2018), "Effect of Herbal Medicine on Vaginal Epithelial Cells: A Systematic Review and Meta-analysis", Journal of menopausal medicine. 24(1), pp. 11-16.

22. Wang, Chi Chiu, et al. (2013), "A randomized, double-blind, multiple-dose escalation study of a Chinese herbal medicine preparation (Dang Gui Buxue Tang) for moderate to severe menopausal symptoms and quality of life in postmenopausal women", Menopause. 20(2), pp. 223-231.

23. Wang, Yong, et al. (2019), "Erxian decoction, a Chinese herbal formula, for menopausal syndrome: An updated systematic review", Journal of ethnopharmacology. 234, pp. 8-20.

24. Xia, Ye, et al. (2012), "A randomized double-blind placebo-controlled trial of a Chinese herbal medicine preparation (Jiawei Qing’e Fang) for hot flashes and quality of life in perimenopausal women", Menopause. 19(2), pp. 234-244.

25. Yan, Fang‐Fang, et al. (2008), "Herba Epimedii water extract elevates estrogen level and improves lipid metabolism in postmenopausal women", Phytotherapy research. 22(9), pp. 1224-1228.

26. Zhipeng, Wang, et al. (2017), "Effect of Guizhi Gancao Longgu Muli Tang on sleep disturbances in menopausal women", Journal of Traditional Chinese Medicine. 37(1), pp. 23-29.

27. Zhong, Linda L. D., et al. (2013), "A randomized, double-blind, controlled trial of a Chinese herbal formula (Er-Xian decoction) for menopausal symptoms in Hong Kong perimenopausal women", Menopause. 20(7), pp. 767-776.

 

#Y học cổ truyền#Tài liệu y khoa#Academy
Bình luận