84 phút đọc
8/6/2024
TINH Y HỌC CỔ TRUYỀN
TINH Y HỌC CỔ TRUYỀN
Học thuyết tinh khí
---
Quan niệm triết học
Triết học cổ đại phương Đông cho rằng mọi vật trên thế giới đều do khí tạo nên. Hoài nam tử - Thiên Văn huấn: “Thuở rất sơ khai tất cả đều là vô hình. Bắt đầu từ hư không, hư không sinh vũ trụ, vũ trụ sinh khí, khí có ranh giới. Thanh dương, nhẹ nhàng thành trời; nặng đục, ngưng trệ thành đất. Thanh nhẹ dễ chuyển dịch, nặng đục ngưng tụ khó chuyển dịch vì thế trước hình thành trời sau hình thành đất”. Vương Xung trong Luận hành – Ngôn độc: “Vạn vật sinh ra đều bẩm thụ nguyên khí”. Tố vấn – Âm Dương ứng tượng đại luận: “Dương khí của trời hạ giáng, âm khí của đất thượng thăng, giữa trời và đất âm khí và dương khí giao hội cảm ứng hoà trộn với nhau mà hoá sinh vạn vật” [11].
Khí tồn tại trong tự nhiên dưới hai trạng thái: (1) ở trạng thái vận động mạnh mẽ và liên tục, do rất nhỏ lại phân tán và vận động không ngừng mắt thường không nhận thấy nên gọi là “vô hình”; (2) ở trạng thái ngưng tụ, khí tuy nhỏ, phân tán, nhưng khi ngưng tụ lại với nhau thì thành một thực thể có thể nhìn rõ gọi là “hữu hình” [11].
Hình 1. Sự tán và tụ của khí
(Nguồn: Maciocia, Giovanni (2015), The foundations of Chinese medicine: a comprehensive text, Third edition/25th Anniversary edition. ed, Elsevier.)
Nếu chúng ta xem xét theo vật lý học thì mọi sự viện hiện tượng trên Trái đất đều có cơ sở cấu thành từ nguyên tử, nếu chia nhỏ nguyên tử thành hạt nhân mang điện tích dương và vỏ nguyên tử chứa electron mang điện tích âm; nếu tiếp tục chia nhỏ hạt nhân thành proton và neutron thì proton mang điện tích dương, neutron không mang điện tích; tiếp tục chia ra thì proton được cấu tạo từ 3 hạt quarks là uud, trong đó u mang điện tích 2/3 và d mang điện tích -1/3. GS Fritjof Capra viết: Với số lượng hạt cơ bản được tìm thấy ngày càng tăng lên nếu năm 1935 con số 3 hạt đã lên 6 hạt, năm 1955 lên đến 18 hạt, và ngày nay chúng ta có hơn 200 hạt cơ bản gồm hàng trăm hạt baryon và meson vậy câu hỏi được đặt ra là có thể chia chẻ vật chất ra mãi được không hay chỉ đến một số hạt nhất định nào đó thì không thể chia chẻ được nữa. Sau khám phá của Dirac (Dirac đã tiên đoán sự tồn tại của hạt phản electron, hạt positron, đồng thời ông cũng tiên đoán tiến trình tạo tác và hủy diệt cặp hạt – phản hạt trước khi chúng được quan sát thực sự trong thiên nhiên, và từ đó đến nay đã xảy ra vô số lần. Từ lí thuyết của ông đề ra tính đối xứng giữa vật chất và phản vật chất là cứ mỗi hạt thì hiện hữu một đối hạt đồng khối lượng, mang điện tích ngược. Nếu có năng lượng đầy đủ thì từng cặp hạt và phản hạt sẽ được tạo hình, và tiến trình ngược lại là một cặp có thể hủy diệt để giải phóng năng lượng) thì câu trả lời sáng tỏ khi hai hạt va chạm nhau với năng lượng cao, chúng vỡ thành từng mảnh, nhưng các mảnh không nhỏ hơn các hạt ban đầu, các mảnh cũng là các hạt cùng loại nhưng chúng được tạo ra từ động năng mà thành. Cách duy nhất để chia chẻ các hạt hạ nguyên tử chính là cho chúng va chạm nhau với năng lượng cao, với cách này ta có thể chia chẻ hoài vật chất nhưng chúng không hề bị nhỏ đi vì chúng được sinh ra từ năng lượng [3].
GS Fritjof Capra cũng viết trong cuốn Đạo của vật lý: Trong vật lý cổ điển, từ khối lượng luôn luôn được liên hệ với một thể vật chất, không thể phân chia, với một chất nhất định, từ đó mà mọi sự hình thành. Thuyết tương đối bây giờ chứng minh khối lượng không hề là một chất liệu, mà là một dạng của năng lượng. Năng lượng lại là một đại lượng nói lên tính năng động, một dạng hoạt động hay một tiến trình. Thế nên khối lượng của một hạt đồng nghĩa với một trị số năng lượng thì hạt không còn được xem là một vật thể tĩnh nữa mà là một cơ cấu động, là quá trình của một năng lượng chỉ đang mang dạng vật chất. Những thí nghiệm cao năng lượng trong những thập niên qua cho ta thấy một cách rõ rệt tính chất năng động và luôn thay đổi của các hạt. Trong những thí nghiệm này, vật chất xuất hiện như là một cái gì luôn luôn chuyển hóa. Tất cả mọi hạt này đều có thể chuyển hóa thành mọi hạt kia; chúng được tạo thành từ năng lượng và biến thành năng lượng. Trong thế giới này, những khái niệm cổ điển như hạt cơ bản, tự tính vật chất hay vật thể độc lập mất hết ý nghĩa. Vũ trụ xuất hiện như một tấm lưới năng động với những cơ cấu năng lượng không thể chia cắt [3].
Ngày 4 tháng 7 năm 2012, các nhà vật lý học tại Tổ chức Nghiên cứu Nguyên tử châu Âu (CERN) đã chứng minh sự tồn tại của hạt Higgs tại máy gia tốc hạt lớn (Large Hadron Collider – LHC). Dự đoán về sự tồn tại của hạt Higgs đã xuất hiện từ 50 năm trước nhằm đạt tới sự nhất quán giữa những dự đoán lý thuyết và những quan sát thực nghiệm vật lý hạt cơ bản. Nhà vật lý Peter Higgs và nhiều nhà khoa học khác đã chỉ ra rằng, nếu tồn tại một trường vô hình nào khác (trường Higgs) xuyên thấm khắp không gian, thì các hạt mang lực nào đó như lực điện từ có thể tương tác với trường này và chạm trán ngay với những lực chống đối chuyển động của chúng và dần chậm lại, giống như một người bơi qua một bể mật đường. Kết quả là, những hạt này có thể hoạt động như thể chúng rất nặng, như thể chúng có khối lượng. Ý tưởng này mở rộng tới các hạt còn lại trong tự nhiên, bao gồm các hạt tạo thành các proton và neutron, cũng như các hạt cơ bản như là electron, tất cả các hạt này tạo thành các nguyên tử trong cơ thể của chúng ta. Nếu hạt nào đó tương tác mạnh hơn với trường nền ấy, thì nó tỏ ra nặng hơn. Và nếu nó tương tác yếu hơn, thỉ nó sẽ nhẹ hơn. Nếu không tương tác, giống như photon, nó sẽ vẫn giữ nguyên không có khối lượng. Việc khám phá ra hạt Higgs xác thực ý tưởng cho rằng vũ trụ vào lúc ban sơ trải qua quá trình nở rộng với vận tốc nhanh hơn ánh sáng, được gọi là lạm phát, sản sinh ra hầu như toàn bộ không gian và vật chất trong vũ trụ ngày nay từ gần như “không gì cả” chủ yếu dựa trên khả năng có một trường khác, trường Higgs ngay lập tức thống trị trong một khoảnh khắc của thời kỳ đầu [12].
Như vậy, những khám phá của vật lý hạt đã gián tiếp chứng minh sự đúng đắn của quan niệm khí hình thành nên vũ trụ trong triết học Đông phương, khí khi tán thì không thể nhìn thấy, khí tụ hình thành nên vật hữu hình.
Hình 2. Hạt và phản hạt
Sự vận động của khí gọi là khí cơ. Hình thức vận động của khí rất phong phú, các triết gia cổ đại thông qua khái quát cao độ, quy nạp thành bốn hình thức: thăng, giáng, xuất, nhập. Trong trạng thái bình thường thì thăng với giáng, nhập với xuất đều được duy trì tương đối cân bằng. Sự vận động của khí sinh ra các loại biến hóa - gọi là khí hóa. Hiện tượng khí hóa rất phức tạp. Ví dụ như khí vô hình thành khí hữu hình, khí hữu hình lại thành khí vô hình, sự chuyển hóa giữa các hình thức khí như vậy thuộc phạm trù khí hóa. Vạn vật đều do khí tạo thành, nên sự biến hóa của vạn vật cũng đều thuộc khí hóa. Như vậy sinh, trưởng, tàng, dừng ở động vật; sinh, trưởng, hóa, thu, tàng ở thực vật, không có gì không thuộc khí hóa, khí hóa cũng vĩnh viễn không ngừng [11].
Hình 3. Sự vận động của khí
(Nguồn: Maciocia, Giovanni (2015), The foundations of Chinese medicine: a comprehensive text, Third edition/25th Anniversary edition. ed, Elsevier, xxvii, 1289 pages.)
Quan hệ giữa sự vận động của khí và khí hóa rất mật thiết, cần thiết phải thông qua vận động của khí mới có khí hóa. Có thể nói sự vận động của khí chính là tiền đề của khí hóa, không có khí cơ cũng sẽ không có khí hóa và đương nhiên cũng không có sự biến hóa nào trong vạn vật. Thăng phải nhờ có giáng, có giáng mới có trời; giáng phải nhờ có thăng, có thăng mới có đất. Khí trời hạ giáng lưu ở đất; khí đất thượng thăng cuộn trên trời. Như vậy cao thấp giúp đỡ nhau, thăng giáng thúc đẩy nhau mà biến tác. Khí tạo thành một thế giới hoàn chỉnh, vận động của khí tạo nên biến hóa từ đó dẫn đến sự vận động và biến hóa của thế giới. Khí chỉ có một mà động - tĩnh - tới - lui - đóng - tích - thăng - giáng, tuần hoàn không nghỉ, nhỏ bé như thế nhưng tạo thành bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, tạo nên sinh trưởng thu tàng của vạn vật, tạo nên sự bình thường của người này, tạo nên sự thành bại của người khác. Sự vận động biến hóa không ngừng của khí dẫn đến vạn vật vạn sự của thế giới. Đến lượt vạn vật cũng vận động và biến hóa không ngừng, tất cả sự vận động và biến hóa trên thế giới đều là biểu hiện cụ thể của sự vận động biến hóa của khí [11].
Hình 4. Chức năng của khí
Mỗi vật thể đều độc lập tương đối, giữa vật thể này với vật thể khác tưởng như không có quan hệ gì, thật ra giữa chúng đều là khí. Giữa trời đất vạn vật tràn đầy khí tạo ra tương hỗ giữa chúng với nhau. Chính nhờ có khí, trời đất vạn vật mới liên quan với nhau, tạo thành một chỉnh thể, người ta chỉ là một bộ phận trong chỉnh thể ấy. Do vậy sự biến hóa của người, trời đất, vạn vật thường thường tương thông. Nên Linh khu - Tuế lộ: “Người tương thâm với trời đất, tương ứng với nhật nguyệt”. Tố vấn - Bảo mệnh toàn hình luận: “Người do khí của trời đất sinh ra và phải theo quy luật của bốn mùa mà tồn tại”. Hoài nam tử: “Khí trọc thành trùng, khí thanh thành người”. Tinh khí của trời đất tương hợp mới có thể thành người, người do tinh khí của trời đất tương hợp mà sản sinh, tinh khí của trời đất là vật chất cơ bản để tạo thành người [11].
Với thành quả nghiên cứu trong nhiều thế hệ, đến nay vật lý thiên văn đã cho con người cái nhìn khái quát về các giai đoạn hình thành của vũ trụ. Thông qua các giai đoạn này đã cho thấy sự vận động tiến hoá không ngừng từ hư không hình thành nên vũ trụ ngày nay, bao gồm cả con người. Cũng như khí, bốn lực cơ bản đã từng thống nhất với nhau, sau đó tách ra, và cùng chi phối tất cả các hoạt động trong vũ trụ ngày nay[8].
-
Kỷ nguyên Planck, thời điểm trước 10-43 giây : Ở mức năng lượng Planck (1019 tỉ electron volt), lực hấp dẫn đã từng mạnh như các lực khác (lực tương tác hạt nhân mạnh, lực tương tác hạt nhân yếu, lực điện từ). Kết quả là bốn lực của vũ trụ đã thống nhất thành một siêu lực duy nhất. Có lẽ vũ trụ đã tồn tại trong một giai đoạn hoàn hảo của « hư không ». Tính đối xứng bí ẩn trộn lẫn cả bốn lực.
-
Kỷ nguyên thống nhất lớn, thời điểm 10-43 giây : Sự phá vỡ tính đối xứng xảy ra, tạo ra một bong bóng dãn nở nhanh. Khi bong bóng phình ra, các lực cơ bản tách khỏi nhau, lực hấp dẫn là lực cơ bản đầu tiên tách khỏi ba lực khác, giải phóng một sóng xung kích ra khắp vũ trụ. Vũ trụ phình ra (lạm phát) với hệ số nhân khổng lồ 1050 trong suốt giai đoạn này, với các lý do chưa được hiểu rõ làm cho không gian dãn nở với tốc độ nhanh hơn tốc độ ánh sáng, nhiệt độ là 1032 độ.
-
Kết thúc lạm phát, thời điểm 10-34 giây : Nhiệt độ giảm xuống còn 1027 độ khi lực hạt nhân mạnh tách khỏi hai lực kia. Thời kỳ lạm phát kết thúc, cho phép vũ trụ chuyển xuống dãn nở Friedmann chuẩn. Vũ trụ bao gồm các plasma nóng của các quark, các gluon và các lepton. Các quark tự do kết hợp thành proton và neutron. Vật chất và phản vật chất triệt tiêu nhau, nhưng một dư lượng nhỏ của vật chất so với phản vật chất đã tồn tại và hình thành nên vật chất mà chúng ta thấy ngày nay.
-
Hình thành các hạt nhân, thời điểm 3 phút : Nhiệt độ giảm xuống đủ cho các hạt nhân hình thành mà không bị tách nhau ra do sức nóng dữ dội. Hydro hợp nhất thành Helium.
-
Các nguyên tử được sinh ra, thời điểm 380.000 năm : Nhiệt độ giảm xuống còn 3000 độ Kelvin. Các nguyên tử hình thành khi các electron chuyển động ổn định xung quanh các hạt nhân mà không bị tách ra vì nhiệt.
-
Các ngôi sao kết tụ, thời điểm 1 tỷ năm : Nhiệt độ giảm xuống 18 độ. Các chuẩn tinh, các thiên hà, các quần thiên hà đã bắt đầu kết tụ. Các ngôi sao bắt đầu tạo ra các nguyên tố nhẹ, như carbon, oxy, nito. Các ngôi sao đang nổ tạo thành các nguyên tố vượt quá sắt trong bảng tuần hoàn.
-
Dãn nở de Sitter, thời điểm 6.5 tỷ năm : Dãn nở Friedmann kết thúc, vũ trụ tăng tốc và tiến vào giai đoạn dãn nở de Sitter.
-
Ngày nay, thời điểm 13.7 tỷ năm : Nhiệt độ đang là 2.7 độ. Vũ trụ vẫn đang tiếp tục tăng tốc theo phương thức dãn nỡ ra xa.
---
Quan điểm y học
Các khái niệm
Tinh (essence): (1) vật chất cơ bản để duy trì cấu trúc và các chức năng cơ bản của cơ thể; (2) Vật chất để duy trì nòi giống trữ ở thận [20].
Tinh tiên thiên (innate essence): vật chất ban đầu để xây dựng cơ thể và duy trì nòi giống, thường chỉ tinh sinh dục, còn gọi là tinh bẩm sinh [20].
Tinh hậu thiên (acquired essence): vật chất cơ bản thu được từ thức ăn sau khi đã tiêu hoá và hấp thu và được dùng để duy trì các chức năng sống, còn gọi là tinh [20].
Thận tinh (kidney essence): tinh tiên thiên trữ ở thận [20].
Khí (qi): yếu tố cơ bản tạo ra vũ trụ và thông qua chuyển động, biến đổi và chuyển hoá của nó tạo ra toàn bộ vũ trụ, bao gồm cơ thể con người và hoạt động sống. Trong y học khí chỉ vật chất dinh dưỡng trong cơ thể con người cũng như hoạt động chức năng của nó [20].
Khí tiên thiên (innate qi): khí có sẵn từ khi sinh ra, còn gọi khí bẩm sinh [20].
Khí hậu thiên (acquired qi): khí thu được sau khi sinh được tạo ra từ khí của thức ăn và khí trời ở phế, còn gọi là khí hậu thiên [20].
Chính khí (healthy qi): thuật ngữ chung chỉ các chức năng bình thường của cơ thể con người, bao gồm khả năng tự điều hoà, thích nghi [20].
Chân khí (genuine qi): sự kết hợp của khí tiên thiên và khí hậu thiên làm nền tảng vật chất cho cơ thể và là động lực cho tất cả các chức năng sống, cũng là khí chân thực [20].
Nguyên khí (source qi): sự kết hợp của khí tiên thiên và khí hậu thiên làm thành khí chủ yếu nhất của cơ thể con người, được coi là khí nguồn [20].
Tông khí (ancestral qi): sự kết hợp của tinh khí hoá đồ ăn thức uống và khí trời hít thở vào trong ngực, làm động lực cho sự tuần hoàn máu, hô hấp, tiếng nói, vận động của cơ thể, cũng là khí của ngực [20].
Vệ khí (defense qi): khí di chuyển bên ngoài mạch, bảo vệ bề mặt cơ thể tránh khỏi ngoại tà, được coi là khí bảo vệ [20].
Dinh/doanh khí (nutrient qi): khí di chuyển bên trong mạch, dinh dưỡng tất cả các cơ quan và tổ chức trong cơ thể, được coi là khí dinh dưỡng [20].
Tân khí (fluide qi): (1) giống nhu tân dịch; (2) khí được vận hành bởi dịch [20].
Tạng khí (visceral qi): khí giúp các tạng hoạt động; các hoạt động chức năng của các tạng [20].
Phủ khí (bowel qi): khí giúp các phủ hoạt động; các hoạt động chức năng của các phủ [20].
Tâm khí, Can khí, Tỳ khí, Phế khí, Thận khí, Đởm khí, Vị khí [20].
Trung khí (middle qi): khí của trung tiêu, là cơ sở vật chất và động lực cho các hoạt động chức năng của tỳ, vị và tiểu trường gồm tiêu hoá, hấp thu, vận chuyển, thăng thanh giáng trọc [20].
Kinh khí (meridian qi): khí chạy qua các đường kinh, cũng là khí của lạc [20].
Khí hoá (qi tranformation): thuật ngữ chung chỉ những thay đổi khác nhau do hoạt động cùa khí, cụ thể là chuyển hoá và biến đổi lẫn nhau giữa tinh, khí, huyết và tân dịch [20].
Khí cơ (qi movement): chuyển động của khí gồm thăng giáng xuất nhập là những hình thức chuyển động cơ bản, cũng được coi là khí động/khí cơ [20].
Tinh huyết đồng nguyên [20].
Tân huyết đồng nguyên [20].
Âm khí: phần âm của khí, khí của cơ sở vật chất [20].
Dương khí: phần dương của khí, khí của hoạt động chức năng [20].
---
Tinh khí trong con người
Ba khái niệm về tinh: (1) Tinh khí là bộ phận tinh túy nhất của khí trong giới tự nhiên. (2) Phiếm chỉ thành phần hữu dụng trong cơ thể con người. Tức bao gồm tinh khí vô hình nhưng rất động, lẫn tinh hữu hình như tinh tiên thiên, tinh hậu thiên thủy cốc v.v…(3) Chuyên chỉ tinh tàng trong Thận, tức Thận tinh. Trong ba quan niệm trên, phàm tinh khí vô hình đều là bộ phận của khí, như thành phần tinh túy của khí trong vũ trụ và thành phần vô hình hữu dụng trong cơ thể đều bao hàm một chỉnh thể khí, loại sau quan hệ với y học cổ truyền rất mật thiết. Phàm tinh hữu hình và khí đều có thể chuyển hóa lẫn nhau, tức tinh hữu hình có thể tán ra thành tinh khí vô hình, tinh khí vô hình lại có thể ngưng tụ thành tinh hữu hình, tạo nên “sự chuyển hóa lẫn nhau giữa tinh và khí”. Biểu thị quy luật nội tại về sự vận động biến hóa của vật chất trong giới tự nhiên [11].
Tố vấn: Thuỷ vi âm, hoả vi dương, dương vi khí, âm vi vị, vị quy hình, hình quy khí, khí quy tinh, tinh quy hoá, tinh tự khí, hình tự vị, hoá sinh tinh, khí sinh hình, vị thương hình khí thương tinh, tinh hoá vi khí, khí thương vu vị. Dịch nghĩa: Lấy nước và lửa mà chia ra âm dương, thì nước là thuộc âm, lửa là thuộc dương. Lấy người ta để chia ra âm dương thì công năng là thuộc dương, vật chất ăn uống là thuộc âm. Vật chất ăn uống có thể nuôi dưỡng hình thể, mà sự sinh thành của hình thể lại phải nhờ vào công năng của khí hoá. Công năng là do tinh khí sinh ra, tức là tinh có thể hoá sinh ra công năng, mà tinh lại do khí hoá sinh ra, cho nên sự nuôi dưỡng hình thể toàn vào vật chất ăn uống, vật chất ăn uống thông qua tác dụng khí hoá để nuôi dưỡng hình thể. Nếu như ăn uống nhiều quá cũng có thể làm tổn thương đến tinh khí, tinh có thể sinh ra công năng, nhưng công năng cũng có thể vì ăn uống nhiều quá mà bị tổn thương [25].
Người ta ngay từ trong bụng mẹ đã nhận được tinh khí tiên thiên. Sau khi sinh, thông qua Phế thu nhận tinh khí của trời, nhờ Tỳ Vị hấp thụ tinh khí của thủy cốc. Ba loại khí tương hợp, thông qua khí hóa, hóa sinh thành tinh khí của cơ thể. Loại khí này thúc đẩy hoạt động chức năng sinh lý của tạng phủ, các khiếu, kinh lạc [1]. Khí trong cơ thể tồn tại dưới nhiều hình thức : vệ khí, dinh khí, nguyên khí, tinh khí, tân dịch, huyết.
Hình 5. Các dạng tồn tại của khí trong cơ thể con người
Tinh khí trong cơ thể con ngưởi là khí có lợi với con người, là động lực hoạt động của sự sống. Trong cơ thể các tạng phủ, các khiếu, huyết tân dịch đều là hữu hình và tĩnh, cần phải nhờ sự thúc đẩy của khí mới có thể hoạt động. Như Tâm chủ hành huyết, Phế chủ hô hấp, Tỳ chủ vận hóa thủy cốc, Thận chủ tàng tinh khí của tiên thiên, Can chủ sơ tiết khí cơ, Vị chủ thu nạp thủy cốc... các hoạt động chức năng sinh lý đều do khí thúc đẩy mà tiến hành [11].
---
Năng lượng hoá sinh học
Trong khoa học hiện đại, xét về mặt vật lý như đã thảo luận ở trên, cơ thể con người cũng được cấu tạo từ các hạt cơ bản, và thậm chí khi xét đến thuyết tương đối thì cơ thể của chúng ta được cấu thành từ năng lượng. Nếu chỉ xét các quá trình hoạt động nhìn thấy được trong cơ thể, tế bào đang sử dụng năng lượng để hoạt động và khi tế bào còn hoạt động thì sự sống còn tiếp diễn. Có thể định nghĩa năng lượng là khả năng sinh công. Có thể khai thác năng lượng tích trữ trong liên kết hoá học để cung cấp cho hoạt động hoá học và vận động cơ học của tế bào. Có hai dạng năng lượng cơ bản: động năng và thế năng. Động năng là năng lượng vận động (bao gồm nhiệt năng, năng lượng bức xạ, cơ năng và điện năng), thế năng là dạng năng lượng tích trữ (bao gồm háo năng, năng lượng gradient nồng độ và điện thế), đặc biệt quan trọng trong các hệ thống sinh học hoặc hoá học [18].
Động năng: (1) Nhiệt năng là một dạng của động năng, để sinh công, nhiệt cần truyền từ vùng có nhiệt độ cao – nơi tốc độ vận động trung bình của phân tử cao hơn – tới nơi có nhiệt độ thấp hơn. Mặc dù có tồn tại chênh lệch nhiệt độ giữa môi trường bên trong và bên ngoài tế bào, gradient nhiệt này thường không phải nguồn năng lượng giúp tế bào hoạt động. (2) Năng lượng bức xạ là động năng của photon (sóng ánh sáng). Năng lượng bức xạ có thể chuyển thành nhiệt năng (ví dụ khi các phân tử hấp thụ ánh sáng và chuyển hoá năng lượng thành vận động phân tử). Năng lượng bức xạ do các phân tử hấp thụ cũng có thể làm biến đổi cấu hình điện tử của nó, chuyển điện tử tới trạng thái năng lượng (orbital) cao hơn. Trạng thái cao năng này sau đó phục hồi trở lại bình thường và giải phóng năng lượng để sinh công. (3) Cơ năng là dạng động năng chính trong sinh học, thường do chuyển hoá năng lượng hoá học đã tích trữ từ trước gây ra. (4) Điện năng là dạng năng lượng vận động của điện tử hoạc các hạt mang điện tích khác – cũng là một dạng động năng [18].
Thế năng: (1) Hoá năng là dạng thế năng quan trọng trong sinh học, dạng năng lượng này được lưu giữ dưới dạng liên kết hoá học giữa các nguyên tử trong phân tử. (2) Gradient nồng độ tồ tại khi một chất có nồng độ khác nhau tại hai bên của rào chắn (ví dụ màng tế bào). Mọi tế bào hình thành gradient nồng độ giữa dịch bên trong và bên ngoài bởi trao đổi chất dinh dưỡng, chất thải và ion với môi trường xung quanh. (3) Điện thế là dạng thế năng, là năng lượng phân tách điện tích. Ví dụ, tồn tại gradient điện thế ≈ 200.000 volt/cm qua màng tế bào chất của hầu như mọi tế bào [18].
Theo định luật nhiệt động học thứ nhất, năng lượng không tự sinh ra cũng không tự mất đi mà chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác. Ví dụ, trong quang hợp, quang năng của ánh sáng được chuyển thành hoá năng nằm tại các liên kết cộng hoá trị trong phân tử sucrose hay tinh bột. Ở cơ và thần kinh, hoá năng tích trữ trong liên kết cộng hoá trị được chuyển hoá thành động năng khi co bóp cơ và điện năng khi truyền xung thần kinh. Trong mọi tế bào, thế năng tạo ra khi phá vỡ các liên kết hoá học nhất định được sử dụng để tạo ra thế năng dưới dạng gradient nồng độ và gradient điện thế. Tương tự, năng lượng lưu trữ trong gradient nồng độ hoá học hay gradient điện thế được sử dụng để tổng hợp các liên kết hoá học hoặc để vận chuyển các phân tử qua màng nhằm tạo ra gradient nồng độ. Trong hệ thống sinh học, biến thiên năng lượng tự do (△G) giúp xác định chiều phản ứng, cho biết phản ứng là phản ứng toả năng lượng hay phản ứng thu năng lượng (xem Hình 6). Sự sống phụ thuộc vào cặp đôi phản ứng toả năng lượng và thu năng lượng. Do nhiều quá trình trong tế bào không thuận lợi về mặt năng lượng (△G>0) và không tự xảy ra, tế bào cần thực hiện phản ứng sinh năng lượng (toả năng lượng) để tạo năng lượng cho phản ứng thu năng lượng. Trong tế bào, các phản ứng thu năng lượng thường đi kèm với phản ứng thuỷ phân ATP giải phóng năng lượng (xem Hình 7) [18].
Hình 6. Biến thiên năng lượng tự do (△G) của phản ứng toả năng lượng và phản ứng thu năng lượng.
Ghi chú: (a) Trong phản ứng toả năng lượng, năng lượng tự do của sản phẩm thấp hơn của chất tham gia phản ứng nên phản ứng tự xảy ra và giải phóng năng lượng trong tiến trình phản ứng. (b) Trong phản ứng thu năng lượng, năng lượng tự do của sản phẩm lớn hơn của chất tham gia phản ứng nên phản ứng không tự xảy ra và cần cung cấp năng lượng để chuyển hoá chất tham gia phản ứng thành sản phẩm.
Hình 7. Sự thuỷ phân của adenosine triphosphate (ATP).
Ghi chú: Hai liên kết phosphoandhydride (màu đỏ) trong phân tử ATP kết nối ba nhóm phosphate lại với nhau và mỗi liên kết có △Go≈ -7.3 kcal/mol khi thuỷ phân. Sự thuỷ phân của những liên kết này, đặc biệt tại một đầu, là nguồn năng lượng điều khiển nhiều phản ứng cần năng lượng trong các hệ sinh học. (Nguồn: Lodish, Harvey F. (2013), Molecular cell biology, 7th ed, W.H. Freeman and Co., New York, xxxiii, 1154, 58 p.)
Hình 8. Khái quát về oxy hoá hiếu khí và quang hợp.
Ghi chú: Tế bào nhân chuẩn dùng hai cơ chế chính để chuyển hoá các nguồn năng lượng bên ngoài thành ATP. (Trên) Trong oxy hoá hiếu khí, phân tử “nhiên liệu” (chủ yếu là đường và acid béo) qua xử lý ban đầu trong bào tương, ví dụ như phân giải glucose thành pyruvate (giai đoạn I), sẽ được vận chuyển vào ty thể để được chuyển hoá thành carbon dioxide và nước bởi oxy hoá với O2 (giai đoạn II và III). Cuối cùng, ATP được sinh ra (giai đoạn IV). (Dưới) Trong quang hợp diễn ra trong lục lạp, năng lượng bức xạ của ánh sáng được các sắc tố chuyên biệt hập thụ (giai đoạn I); năng lượng này được dùng vừa để oxy hoá nước thành O2 vừa để thiết lập các điều kiện (giai đoạn II) cần thiết để sản xuất ATP (giai đoạn III) và carbonhydrate từ CO2 (cố định carbon, giai đoạn IV). Cả hai cơ chế bao gồm cả sản xuất các chất khử mang electron năng lượng cao (NADH, NADPH, FADH2) và di chuyển của electron theo chiều điện thế qua chuỗi vận chuyển electron nằm trên các màng chuyên biệt. Năng lượng của các electron này được giải phóng và sử dụng dưới dạng động lực proton (gradient điện hoá của proton) để tổng hợp ATP. Vi khuẩn sử dụng các quá trình tương tự. (Nguồn: Lodish, Harvey F. (2013), Molecular cell biology, 7th ed, W.H. Freeman and Co., New York, xxxiii, 1154, 58 p.)
Trong cơ thể con người, năng lượng chủ yếu là hoá năng từ thức ăn. Tất cả các thức ăn nói chung đều chứa sáu nhóm chất dinh dưỡng: protein, lipid, glucid, vitamin, muối vô cơ, nước, trong đó ba nhóm chất sinh năng lượng là protein, glucid và lipid. Có sự chuyển hoá qua lại giữa các chất như protid, lipid, glucid (xem Hình 10) [5]. Đồng thời, các chất này cũng có thể chuyển hoá thành năng lượng thông qua chu trình citric acid (xem Hình 9).
Hình 9. Chu trình chuyển hoá năng lượng tổng quát
Hình 10. Chu trình chuyển hoá các chất trong cơ thể người.
(Nguồn: http://biochemical-pathways.com/#/map/1)
Năng lượng được cơ thể sử dụng trong các mục đích: (1) năng lượng tiêu hao cho sự duy trì cho cơ thể tồn tại bình thường (chuyển hoá cơ bản, vận cơ, điều nhiệt, tiêu hoá); (2) năng lượng tiêu hao cho sự phát triển của cơ thể như tăng chiều cao, tăng trọng lượng thì cần phải tăng kích thước và số lượng tế bào hoặc bổ sung thay đổi các mô mới; (3) năng lượng tiêu hao cho sinh sản như tạo thai, phát triển thai, nuôi dưỡng thai, tăng tuần hoàn của mẹ để cung cấp cho thai,…[5]
Chuyển hoá năng lượng trong cơ thể được điều hoà ở hai mức độ: tế bào và cơ thể. Ở múc độ tế bào, chuyển hoá năng lượng được điều hoà ngược bởi nồng độ ATP. Khi tế bào không hoạt động, nồng độ ADP trong tế bào thấp, tất cả các phản ứng sinh năng lượng trong tế bào đều giảm. Khi tế bào hoạt động, ATP được biến đổi thành ADp, nồng độ ADP tăng, các phản ứng sinh năng lượng càng tăng. Ở mức độ cơ thể, điều hoà chuyển hoá năng lượng thông qua ba cơ chế: (1) cơ chế thần kinh gồm có hệ giao cảm và vùng dưới đồi; (2) cơ chế thể dịch bao gồm nhiều loại hormone như hoarmon tuyến giáp, tuỷ thượng thận, vỏ thượng thận, tuyến tuỵ, tuyến yên, tuyến sinh dục [5].
Các nghiên cứu hiện nay đang từng bước làm sáng tỏ khái niệm khí trong YHCT tương đồng như thế nào với YHHĐ. Với sự phát triển của các công cụ nghiên cứu mới dựa trên hệ thống sinh học (systems biology), nhóm tác giả Jing Sun và cs (2016)[23] thông qua điều tra thành phần hoá học của bài thuốc Tứ quân và Tứ vật, hai bài thuốc bổ khí và bổ huyết kinh điển của YHCT, tìm hiểu đích tác động phân tử các các thành phần hoạt chất trong hai bài thuốc trên. Kết quả cho thấy, bài Tứ quân liên quan với các chức năng, tiến trình của tế bào, xử lý thông tin môi trường, và chức năng chuyển hoá. Trong khí đó, bài Tứ vật liên quan đến chuyển hoá các chất trong tế bào như beta-Alanine, histidine, arginine.
Hình 11. Mạng lưới các con đường tác động của bài thuốc Tứ quân và Tứ vật.
Ghi chú: Các nốt màu xanh đại diện cho bài Tứ quan, các nốt màu đỏ đại diện cho bài Tứ vật, các nốt màu xám đại diện cho cả hai bài thuốc. Kích thước của các nốt biểu thị mức độ ý nghĩa. Độ dậm nhạt của các nốt biểu thị tỷ lệ gen/protein. (Nguồn: Sun, J., Zhang, L., He, Y., Zhang, K., Wu, L., Fan, Y., & Xie, Z. (2016). To Unveil the Molecular Mechanisms of Qi and Blood through Systems Biology-Based Investigation into Si-Jun-Zi-Tang and Si-Wu-Tang formulae. Scientific reports, 6, 34328.)
Trước đó, nhóm nghiên cứu của Pou Kuan Leong và cs (2014)[13] cũng phân tích tổng quan tìm hiểu về tác động của thuốc bổ dương và bổ khí trong quá trình chuyển hoá năng lượng của tế bào và cho thấy có sự tăng tạo năng lượng thông qua cơ chế tăng chuỗi hô hấp tế bào, tăng tạo ATP.
Hình 12. Cơ chế điều trị Hội chứng suy nhược mạn của các thuốc bổ dương/bổ khí.
Ghi chú: ERK, extracellular signal-regulated kinase; ETC, electron transport chain; Nrf2, nuclear factor erythoid 2 related factor 2; ROS, reactive oxygen species; ✰hoạt hoá. (Nguồn: Leong, P. K., Wong, H. S., Chen, J., & Ko, K. M. (2015). Yang/Qi invigoration: an herbal therapy for chronic fatigue syndrome with yang deficiency?. Evidence-Based Complementary and Alternative Medicine, 2015.)
---
Chức năng tinh trong y học
Di truyền học
Quan niệm YHCT
Tinh được tàng tại Thận gồm tinh tiên thiên và tinh hậu thiên. Tinh tiên thiên là do tinh cha kết hợp với tinh mẹ hình thành nên. Tinh tiên thiên là nguồn gốc của sự sống, từ tinh tiên thiên hình thành nên bào thai và phát triển thành trẻ hoàn chỉnh[1]. Như vậy nếu có sự bất thường trong tinh cha hoặc tinh mẹ hoặc cả hai hoặc do bệnh lý trong quá trình mang thải của người mẹ sẽ ảnh hưởng đến tinh tiên thiên của trẻ dẫn đến các bất thường trong quá trình sinh trưởng, phát triển, sinh sản của trẻ sau này. Từ lý thuyết này cho thấy các bệnh lý thuộc nhóm bẩm sinh hoặc di truyền có liên quan đến chức năng Thận chủ tiên thiên.
Tinh hậu thiên có nguồn gốc từ thức ăn. Tỳ vận hóa thức ăn thành chất tinh vi, chuyển lên Phế, Phế tổng hợp thành tông khí, phần dinh khí được đưa qua Tâm hóa đỏ thành huyết, huyết theo mạch đi nuôi dưỡng toàn thân, các cơ quan tạng phủ sẽ nhận huyết và tạo thành tinh, trong đó có Thận[10].
Tinh tiên thiên và tinh hậu thiên có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Lúc trong bào thai và lúc mới sinh, tinh tàng trong Thận chỉ có tinh tiên thiên. Dần theo sự phát triển của cơ thể, tinh hậu thiên do tạng phủ hóa sinh không ngừng tu dưỡng cho tinh tiên thiên làm cho nó dần dần sung mãn. Ngược lại tinh hậu thiên lại dựa vào sự tương trợ của tinh tiên thiên thì mới có thể hóa sinh không ngừng[1]. Như vậy, tinh tiên thiên có thể bị tác động biến đổi trong quá trình phát triển của cơ thể và có thể bị biến đổi dưới tác động của các yếu tố gây bệnh.
---
Quan niệm YHHĐ
Trong Tây y, khái niệm di truyền biểu sinh (Epigenetics) đã được đề xuất từ thập kỉ 40 của thế kỉ XX bởi C.H. Waddington nhằm khảo sát hiện tượng biến đổi biểu hiện gene mà không do tác động của sự thay đổi hóa học của chuỗi DNA trong bộ gene. Các biến cố epigenetics được xem là sự thích ứng cấu trúc của nhiều vùng trên nhiễm sắc thể dưới tác động của môi trường sống làm tăng hay giảm biểu hiện của một số gene nào đó từ đây dẫn đến thay đổi trong kiểu hình. Điều này phù hợp với lý thuyết của YHCT rằng tinh tiên thiên có thể thay đổi trong quá trình sống dưới tác động của môi trường.
Ngoài ra, Thận tinh được đề xuất tương đồng với tế bào gốc trong y học tái tạo qua ít nhất hai khía cạnh. Đầu tiên, các nguyên nhân gây ra hội chứng Thận tinh bất túc như hoạt động tình dục quá mức, các bệnh mạn tính, stress kéo dài, và lão hóa cũng gây ra tổn thương chức năng của tế bào gốc. Thứ hai, xem xét các nghiên cứu một cách hệ thống cho thấy có một lượng lớn các thảo dược và các hoạt chất chiết xuất từ thảo dược có thể tác động lên hành vi của tế bào gốc (bao gồm tế bào gốc tạo máu, tế bào gốc trung mô, tế bào gốc thần kinh, và các nhóm tế bào gốc khác), và hầu hết các thuốc đều thuộc nhóm bổ Thận tinh [21].
Hình 13. Thuốc Đông y tác động đến tế bào gốc
Tình trạng khoẻ mạnh của một cá thể phụ thuộc một phần vào tinh tiên thiên tàng chứa tại tạng Thận, nó được truyền từ bố mẹ sang cho con. Đông y xem xét mỗi người là một cá thể riêng biệt, duy nhất về bản chất, điều này là do sự khác nhau về thận tinh. Điều này được thể hiện qua tính đơn nhất trong khởi phát bệnh, biểu hiện lâm sàng và diễn tiến của bệnh của mỗi cá thể. Tương tự, Tây y cũng cho rằng mỗi cá thể có tính nhạy cảm với yếu tố gây bệnh, biểu hiện lâm sàng, đáp ứng với thuốc khác nhau, và điều này quan hệ mật thiết với yếu tố di truyền và tính đa hình kiểu gene (gene polymorphism). Khoảng hơn 20 năm qua, các nghiên cứu chứng minh kháng nguyên bạch cầu người (HLA) có liên quan chặt chẽ với một số bệnh lý, HLA có tính đa hình và hiện tượng liên kết không cân bằng (linkage disequilibrium). Những đặc trưng này tương đồng với học thuyết thể tạng của Đông y.
Trong thực hành lâm sàng của Đông y, điều trị dưới sự hướng dẫn bằng chẩn đoán bệnh cảnh lâm sàng, như chứng thất miên chẩn đoán thuộc bệnh cảnh tâm thận bất giao sẽ có pháp trị và bài thuốc khác với thất miên có bệnh cảnh can huyết hư. Các nghiên cứu sử dụng hệ thống sinh học (system biology) như genomic báo cáo kết quả cho thấy sự khác nhau trong biểu hiện gene giữa các bệnh cảnh lâm sàng khác nhau trong cùng một bệnh lý Tây y. Weng và cộng sự báo cáo sự khác biệt trong biểu hiện gene của bạch cầu đa nhân trong máu ngoại biên được phân lập trên những bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) có chẩn đoán có hoặc không có can thận âm hư bằng cách sử dụng gene chip. Phân tích số liệu nghiên cứu cho thấy cà mức độ biểu hiện của mRNA và protein của SEC62, cyclin B1 và baculoviral IAP repeatcontaining 3 (BIRC3) thấp hơn đáng kể trên các bệnh nhân HCC có bệnh cảnh can thận âm hư. Wei và cộng sự báo cáo nghiên cứu cho thấy có khác biệt trong biểu hiện ít nhất là 79 gene ở bệnh nhân có bệnh cảnh thận âm hư so với dân số bình thường. Thậm chí, sự khác biệt cũng được tìm thấy giữa bệnh nhân có bệnh cảnh thận âm hư so với thận dương hư, với hơn 145 gene đã được xác định. Tất cả các khác biệt trên có thể là hướng cho liệu pháp gene trị liệu trúng đích. Do đó, chúng tôi cho rằng học thuyết của Đông y có thể là hướng dẫn cho các nghiên cứu về liệu pháp gene ứng dụng trong y học cá thể hoá.
---
Phát dục và Sinh sản
Quan niệm YHCT
Thận tinh là cơ sở vật chất ban đầu của phát dục. Sau khi sinh, dưới sự nuôi dưỡng của tinh hậu thiên, thận tinh dần thịnh vượng đến khí phát triển thành thục, cơ thể sản sinh ra một dạng vật chất tinh vi có tác dụng thúc đẩy công năng sinh dục và duy trì công năng sinh dục gọi là “thiên quý”. Thiên quý thịnh thì nam giới có thể sản sinh ra tinh dịch và nữ giới kinh nguyệt đến đúng kỳ. Khi công năng thận tàng tinh thất thường sẽ làm cho khả năng sinh dục suy giảm, và đây là cơ sở cho việc áp dụng pháp trị cố thận dưỡng tinh trên lâm sàng để điều trị các rối loạn sinh sản [1]. Như vậy, muốn có sự phát dục thì phải có sự bổ sung, nuôi dưỡng của tinh hậu thiên, để đạt đến sự trưởng thành nhất định thì cơ thể mới có thể phát dục. Điều này, cũng đã được chứng minh trong YHHĐ, các xung giải phóng GnRH chỉ tác động lên được trục tuyến yên-tuyến sinh dục khi có tín hiệu cơ thể đạt được sự thưởng thành (chi tiết ở bên dưới).
Tìm hiểu và sự phát dục, một số nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ giữa thận tinh và quá trình phát dục. Ví dụ, để khám phá hiệu quả điều trị của Ziyin Xiehuo Recipe (ZYXHR), dưỡng âm và tả hoả và Yishen Tianjing Recipe (YSTJR), bổ thận và ích tinh trong việc điều hòa các chức năng gonadotrophic và somatotrophic của trục hạ đồi-tuyến yên, và tiết lộ cơ chế ZYXHR và YSTJR trong việc điều chỉnh quá trình phát triển tuổi dậy thì của trẻ em dậy thì sớm nhóm tác giả Cai và cs đã thử nghiệm trên chuột cống cho uống ZYXHR hoặc YSTJR trong 30 ngày. Kết quả cho thấy ZYXHR có thể làm giảm hoạt động của các tế bào thần kinh GnRH ở vùng dưới đồi thông qua ức chế giải phóng các chất dẫn truyền thần kinh kích thích trung ương, trong khi thúc đẩy giải phóng chất dẫn truyền thần kinh ức chế, NPY và beta-END trong vùng gonadotrophic của vùng dưới đồi. Mức độ biểu hiện của các mRNA GnRH, FSH và LH bị điều hoà xuống trong khi mức độ biểu hiện của SS mRNA ở vùng dưới đồi đã được điều hoà lên trong nhóm điều trị ZYXHR. Các mRNA GH trong tuyến yên và IGR-I mRNA trong hành xương đều được điều hoà xuống bởi ZYXHR. YSTJR có thể thúc đẩy hoạt động của các tế bào thần kinh GnRH ở vùng dưới đồi thông qua ức chế sự giải phóng NPY trong vùng gonadotrophic vùng dưới đồi, điều hoà tăng lên mức độ biểu hiện của mRNA GnRH, FSH, LH và GH ở tuyến yên, và IGF-I mRNA ở hành xương (metaphysis), trong khi điều hoà xuống mức độ biểu hiện của SS mRNA trong vùng dưới đồi. Như vậy, ZYXHR và YSTJR có thể điều hòa các chức năng gonadotrophic và somatotrophic của trục hạ đồi-tuyến yên thông qua điều chỉnh thần kinh-nội tiết và các biểu hiện gen của GnRH và SS ở vùng dưới đồi, GH, FSH và LH trong tuyến yên, và IGF-I trong hành xương. Đây có thể là cơ chế chính của ZYXHR và YSTJR trong việc điều chỉnh quá trình phát triển dậy thì và cải thiện sự phát triển xương ở trẻ em dậy thì sớm [2].
---
Quan niệm YHHĐ
Tuổi dậy thì đánh dấu sự kết thúc của thời thơ ấu và là giai đoạn các cá thể trải qua những thay đổi về sinh lý và tâm lý để đạt được sự trưởng thành và khả năng sinh sản. Trục hạ đồi-tuyến yên-tuyến sinh dục kiểm soát tuổi dậy thì và sinh sản và được điều chỉnh chặt chẽ bởi một mạng lưới phức tạp của các yếu tố kích thích và ức chế. Trục này hoạt động trong giai đoạn phôi thai và giai đoạn đầu sau sinh và sau đó bị ức chế trong thời thơ ấu, và tái hoạt động lên đến đỉnh điểm khi bắt đầu dậy thì. Các cơ chế tái kích hoạt này vẫn chưa hoàn toàn được hiểu rõ. Độ tuổi khởi phát tuổi dậy thì khác nhau giữa các cá nhân và thời điểm bắt đầu dậy thì có liên quan đến một số kết cục về sức khỏe sau khi trưởng thành. Có nhiều yếu tố bao gồm các yếu tố di truyền, trao đổi chất và một số yếu tố khác đóng vai trò trong việc kiểm soát sự bài tiết GnRH để khởi đầu dậy thì [31].
Trong yếu tố di truyền thì hệ thống kisspeptin (phát hiện năm 2003) là một thành phần quan trọng để kích hoạt tuổi dậy thì của trục hạ đồi-tuyến yên-tuyến sinh dục, khi đột biến mất chức năng của gen KISS1R (trước đây gọi là GPR54), dẫn đến bất hoạt KISS1R là nguyên nhân của rối loạn này (xem Hình 16). Các nghiên cứu về sinh lý và dược lý đã chỉ ra rằng Kisspeptin là một phần thiết yếu của mạng lưới kích thích phức tạp điều chỉnh sự tiết GnRH. Khi sử dụng Kisspeptin sẽ làm tăng nồng độ LH huyết tương ở nam giới khỏe mạnh, và ở phụ nữ, Kisspeptin cũng gây ra sự giải phóng LH, mặc dù đáp ứng thay đổi theo chu kỳ kinh nguyệt. Kisspeptin ít tiềm năng kích thích gonadotropin giải phóng hơn nhưng theo cách hiệu quả hơn về mặt sinh lý so với các phương pháp điều trị hiện tại với các chất tương tự GnRH. Ngoài hệ thống kisspeptin, còn nhiều yếu tố gene liên quan đến kiểm soát tuổi dậy thì, như các yếu tố kích thích tổng hợp hoặc bài tiết GnRH (GNRHR, KISS3, KISS3R, TAC3, TACR3, GNRH3), các yếu tố ức chế tổng hợp hoặc bài tiết GnRH (MKRN3), các yếu tố liên quan đến di cư của GnRH (KAL3, FGFR3, FGF3, PROK3, PROKR3, CHD3, SEMA3A, WDR33, HS3ST3, FGF33, IL33RD, DUSP3, SPRY3, FLRT3) [31].
Các nghiên cứu trên động vật và con người trong những năm 1960 và 1970 cho thấy chức năng thích hợp của trục hạ đồi-tuyến yên-tuyến sinh dục được kiểm soát bởi các yếu tố chuyển hoá và dinh dưỡng. Một trọng lượng ngưỡng là cần thiết cho sự phát triển và sinh sản của tuổi dậy thì. Các yếu tố hormone ngoại vi được xác định (như leptin, insulin và ghrelin) báo hiệu tình trạng trao đổi chất cho trục sinh sản đã chứng minh cơ chế thần kinh liên kết chuyển hóa và sinh sản [31].
Hình 14. Mô hình phóng điện đồng bộ của các tế bào thần kinh KNDy dẫn đến bài tiết GnRH
Neurokinin B được tiết ra từ các tế bào thần kinh KNDy (Kisspeptin/neurokinin B/dynorphin A, màu xanh lá cây) liên kết với thụ thể tachykinin NK3 (NK3R) theo cách autocrine/paracrine (1), kích hoạt dòng Ca2 + vào tế bào thần kinh KNDy biểu hiện NK3R (2). Ca2 + nội bào tăng có thể lan truyền đến các tế bào thần kinh KNDy và tế bào thần kinh đệm (màu đỏ) thông qua các liên kết gap, ngay cả khi các tế bào thần kinh đó không biểu hiện NK3R (3). Sự lan truyền của sự gia tăng Ca2 + nội bào sẽ dẫn đến sự phóng điện đồng bộ các tế bào thần kinh KNDy và sau đó gây ra sự bài tiết của Kisspeptin theo xung (4). Kết quả bài tiết Kisspeptin dạng xung điều khiển bài tiết GnRH dạng xung ở mức trung bình (5). (Nguồn: Uenoyama, Yoshihisa, et al. (2019), "Central Mechanism Controlling Pubertal Onset in Mammals: A Triggering Role of Kisspeptin", Frontiers in endocrinology. 10, pp. 312-312.)
Hình 15. Cơ chế thần kinh kiểm soát tuổi dậy thì
Gama-amino butyric acid (GABA) hoặc neuropeptide Y (NPY) ức chế bài tiết Kisspeptin (mũi tên xuống). Tác động ức chế này bằng cách nào đó biến mất trong quá trình chuyển đổi sang tuổi dậy thì, dẫn đến sự gia tăng biểu hiện Kiss1 (mũi tên lên). Kết quả bài tiết Kisspeptin được kích hoạt và dẫn tới bài tiết GnRH trong tuổi dậy thì. (Nguồn: Uenoyama, Yoshihisa, et al. (2019), "Central Mechanism Controlling Pubertal Onset in Mammals: A Triggering Role of Kisspeptin", Frontiers in endocrinology. 10, pp. 312-312.)
Hình 16. Cơ chế tác động của yếu tố gen trong kiểm soát dậy thì
Ghi chú: Các yếu tố điều chỉnh quan trọng của GnRH đã được xác định ở những bệnh nhân bị rối loạn tuổi dậy thì. Hình vẽ mô tả các yếu tố điều chỉnh thiết yếu của sự bài tiết GnRH trong đó các đột biến đã được xác định ở người. Đường đứt nét thể hiện con đường đề xuất. FSH=follicle-stimulating hormone. GnRH=gonadotropin-releasing hormone. GnRHR=gonadotropin-releasing hormone receptor. KISS1=kisspeptin. KISS1R=kisspeptin receptor. LH=luteinising hormone. MKRN3=makorin ring finger protein 3. NKB=neurokinin B. NK3R=neurokinin B receptor. (+) kích thích. (–) ức chế. (?) cơ chế đề nghị. (Nguồn: Abreu, Ana Paula and Kaiser, Ursula B. (2016), "Pubertal development and regulation", The lancet. Diabetes & endocrinology. 4(3), pp. 254-264.)
Hình 17. Mô hình các yếu tố chuyển hoá kiểm soát bài tiết GnRH
Ghi chú: Các hormon ngoại vi truyền tín hiệu chuyển hoá đến các tế bào thần kinh GnRH bao gồm: leptin, tín hiệu về sự đầy đủ của năng lượng, là chất kích thích cho sự tiết GnRH. Ghrelin, tín hiệu của sự thiếu hụt năng lượng, là yếu tố ức chế bài tiết GnRH. Insulin và IGF-1 có tác dụng kích thích trên trục sinh sản. Đường đứt nét thể hiện con đường đề xuất. FSH=follicle-stimulating hormone. GnRH=gonadotropin-releasing hormone. GnRHR=gonadotropin-releasing hormone receptor. IGF-1=insulin-like growth factor 1. KISS1=kisspeptin. KISS1R=kisspeptin receptor. LH=luteinising hormone. (+) kích thích. (–) ức chế. (Nguồn: Abreu, Ana Paula and Kaiser, Ursula B. (2016), "Pubertal development and regulation", The lancet. Diabetes & endocrinology. 4(3), pp. 254-264.)
Tín hiệu Kisspeptin (KP, màu xanh lá cây) là một thành phần quan trọng tạo ra sự giải phóng GnRH (màu đỏ) ở vùng dưới đồi. Trong mô hình này, cơ chế tạo xung GnRH nằm trong hạt nhân arcuate (ARC) và đầu ra của tín hiệu này được chuyển tiếp đến các đầu tận cùng GnRH trong median eminence (ME) bằng các phóng chiếu KP phát sinh từ perikarya trong ARC. Trong giai đoạn sơ sinh, hoạt động tạo xung ARC GnRH mạnh và dẫn đến việc giải phóng KP không liên tục trong ME, dẫn đến xung giải phóng GnRH tương ứng vào tuần hoàn. Điều này, đến lượt nó, điều khiển sự tiết gonadotropin (LH và FSH) dưới dạng xung. Trong quá trình chuyển từ giai đoạn sơ sinh sang giai đoạn thơ ấu, một phanh sinh học thần kinh giữ cơ chế tạo xung ARC GnRH trong kiểm soát và giải phóng xung KP trong ME bị triệt tiêu rõ rệt. Điều này dẫn đến giảm giải phóng GnRH và dẫn đến trạng thái hypogonadotropic (nhược năng sinh dục) trong thời kỳ vị thành niên. Khởi phát dậy thì được bắt đầu khi phanh được loại bỏ và sự tạo xung GnRH với sự giải phóng một cách mạnh mẽ và không liên tục của KP trong ME được tái kích hoạt. Theo mô hình này, bí ẩn của tuổi dậy thì nằm ở cơ sở phân tử của phanh sinh học thần kinh và cơ chế giữ phanh trong giai đoạn sơ sinh và giải phóng nó vào cuối giai đoạn vị thành niên. Hai mô hình thời gian có thể được đề xuất. Đầu tiên dựa trên ý tưởng của một đồng hồ tuổi dậy thì nội tại trong não bộ (đại diện bởi mặt đồng hồ ở vùng dưới đồi ở các giai đoạn phát triển). Thứ hai, một thiết bị theo dõi tăng trưởng trong não, được gọi là somatometer (SM, được biểu thị bằng các hộp màu xám) có thể theo dõi tín hiệu tuần hoàn của sự phát triển soma (có lẽ là bộ xương, như trong mô hình này) và do đó phối hợp việc kích hoạt lại bộ tạo xung GnRH cùng với lúc đạt được kích thước cơ thể trưởng thành. Độ dày của mũi tên màu xanh (T, testosterone) và vàng (E, estradiol) cho thấy phản hồi âm tính của tinh hoàn và buồng trứng, tương ứng, phản ánh mức độ ức chế steroid của tuyến sinh dục gây ra khi tiết LH ở ba giai đoạn phát triển này. Cần lưu ý rằng khả năng của tuyến sinh dục sau sinh không đáp ứng hoàn toàn với kích thích gonadotropin cho đến giai đoạn vị thành niên, ở thời điểm này bộ tạo xung GnRh vùng dưới đồi đã bị kiểm soát và ở trong trạng thái ưu thế nược sinh dục (hypogonadotropic).
Hình 18. Mô hình kiểm soát hoạt động tạo xung của GnRH và điều kiển hoạt động của trục tuyến yên-tuyến sinh dục
Ghi chú: AC, anterior commissure; AP, anterior pituitary gland, ARC, arcuate nucleus; OC, optic chiasm; ME, median eminence; MMB, mammillary body. (Nguồn: Plant, Tony M. (2015), "Neuroendocrine control of the onset of puberty", Frontiers in neuroendocrinology. 38, pp. 73-88.)
---
Sự liên hệ tinh – khí – thần trong sự phát dục
Sách Tố vấn - thiên Nguyên kỷ đại luận viết: “Hóa tức vật sinh thành, biến tức vật phát triển đến cùng cực, thần là cái âm dương không đo lường được”. Tuân Huống trong Tuân Tử - Thiên luận chỉ ra: “Vạn vật nhờ hóa mà sinh, nhờ dưỡng mà thành, tưởng như không có quan hệ nhưng lại thấy sinh, thấy thành - đó chính là thần”. Sách Hoài nam tử - Thái huấn biện cũng viết: “Sự sinh thành của vật, tuy không thấy dưỡng mà vẫn trưởng thành. Sự tiêu vong của một vật, tuy khôngthấy hủy hoại mà vẫn mất đi, gọi là thần”. Những dẫn dụ trên về thần đều cho thấy vận động biến hóa phong phú huyền diệu của thế giới tự nhiên liên quan đến quy luật nội tại của chính sự vật [11].
Thần có nhiều tầng nghĩa: (1) Thần chỉ một hoạt động chức năng trong cơ thể. Sách Tố vấn - Linh lan bí điển luận viết: “Tâm giữ vai trò quân chủ, chủ thần minh”. Và thần trong sách Tố vấn - Tuyên minh ngũ khí biện viết: “Tâm tàng thần”, tức là chỉ vai trò chủ hoạt động tâm lý và sinh lý trong cơ thể; (2) Thần là toàn bộ những biểu hiện bên ngoài những hoạt động của sinh vật. Như “Thần” trong sách Tố vấn - Di tinh biến khí luận viết: “Còn thần thì sống, mất thần thì chết”, chỉ biểu hiện bên ngoài sự thịnh suy của cơ thể sống. Trong chẩn đoán y học cổ truyền nói chung chỉ “Thần khí”. (3) Thần chỉ hoạt động tư duy ý thức tinh thần của người [11].
Thần do tinh khí hóa sinh thành, sách Linh khu - Bản thần viết: “Hai tinh tương bác thành thần”. Sau khi thần hình thành cũng cần có sự tư dưỡng của tinh khí. Trương Giới Tân trong Loại kinh cũng chỉ rõ: “Tuy thần do tinh khí sinh ra nhưng thần lại thống ngự tinh khí. Vì vậy thần tàng tại Tâm”. Tinh có thể hóa khí, khí có thể hóa tinh, tinh khí hóa lẫn nhau. Tinh khí sinh thần, tinh khí dưỡng thần, nhưng thần lại thống ngự tinh và khí. Vì vậy cả ba thứ có thể phân nhưng lại không thể tách rời nhau [11].
Khi tinh tiên thiên được bổ sung bởi tinh hậu thiên đạt được đến sự trưởng thành nhất định thì cơ thể phát dục và có khả năng sinh sản, gọi là « thiên quý » đến. Tuy nhiên, Tâm chủ thần minh, toàn bộ các hoạt động trong cơ thể đều dưới sự chỉ huy, thống nhất, điều tiết bởi tạng Tâm, do vậy hoạt động phát dục cũng chịu sự chi phối của tạng Tâm. Qua các cơ chế theo YHHĐ, thấy có sự tương quan với YHCT ở trên thông qua hai khía cạnh : (1) hệ thần kinh kiểm soát xung giải phóng GnRH dẫn đến kiểm soát tuổi dậy thì ; (2) cần phải có sự tác động của chuyển hoá và các tín hiệu cho biết cơ thể đạt đến độ trưởng thành thông tin đến hệ thần kinh để điều chỉnh xung giải phóng GnRH.
----
Lão hoá
Quan niệm YHCT
Linh khu – Thiên Niên bàn về tuổi thọ của con người, cho rằng tuổi thọ dài hay ngắn là do sự khoẻ mạnh của ngũ tạng, khí huyết vận hành theo quy luật. Bàn về nguyên nhân người chưa sống hết tuổi thọ đã chết, cho rằng nếu ngũ tạng không mạnh, ngoại tà xâm nhập thường xuyên làm khí huyết hư nhược, huyết mạch không thông thì chết sớm.
Quá trình phát triển của con người chịu ảnh hưởng chính của sự thịnh suy của tinh khí tạng Thận. Tố vấn – Thượng cổ thiên chân luận đề xuất diễn tiến sự tăng dần sau đó giảm dần của Thận khí theo các giai đoạn cuộc đời ở nam và nữ: “Nữ bảy tuổi Thận khí tịnh, răng sữa đầy đủ. Mười bốn tuổi thiên quý chín, Nhâm mạch thông, Thái xung mạch thịnh, hàng tháng có kinh nguyệt có thể có con. Hai mươi mốt tuổi Thận khí cân bằng, nên răng khôn mọc. Hai mươi tám tuổi gân cốt cứng cáp, tóc mọc dài, thân thể đầy đặn. Ba mươi lăm tuổi âm dương mạch suy, mặt bắt đầu sạm, tóc bắt đầu rụng. Bốn mươi hai tuổi, ba mạch dương suy, ở trên mặt sạm đen, tóc bắt đầu bạc. Bốn mươi chín tuổi, Nhâm mạch hư, Thái xung mạch suy, thiên quý kiệt, kinh nguyệt hết, khó có con. Nam giới tám tuổi Thận khí đầy, mọc đủ răng sữa. Mười sáu tuổi, Thận khí thịnh, tiên quý chín, tinh khí đầy đủ, có thể có con. Hai mươi bốn tuổi, Thận khí cân bằng, cân cốt cứng cáp, mọc răng khôn. Ba mươi hai tuổi, cân cốt thịnh, cơ nhục tráng kiện. Bốn mươi tuổi, Thận khí suy, tóc rụng răng khô. Bốn mươi tám tuổi, dương khí suy kiệt, mặt sạm, tóc hai bên thái dương bạc. Năm mưới sáu tuổi, Can khí suy, cân không còn khả năng hoạt động, thiên quý kiệt, tinh ít, Thận suy, răng tóc đều rụng”[11].
Trong khi đó, Linh khu – Thiên Niên đưa ra quá trình phát triển qua sinh trưởng tráng lão tử với sự biến đổi thịnh suy của khí huyết, cho rằng từ khi sinh ra đến 20 tuổi, ngũ tạng phát triển, khí huyết thịnh; đến 30 tuổi phát triển kiện toàn đầy đủ; đến 40 tuổi thì bắt đầu suy thoái; đến 50 tuổi thì Can khí suy; 60 tuổi Tâm khí suy; 70 tuổi Tỳ khí suy; 90 tuổi, Thận khí suy; đến 100 tuổi ngũ tạng đều suy mà chết[24].
Từ các đoạn kinh văn trên, có thể thấy rằng lão hoá là quá trình tuân theo quy luật tự nhiên xảy ra trên mọi cá thể, diễn tiến từ sinh trưởng, kiện toàn, đến suy yếu dần và tử vong. Tuy nhiên, lão hoá nhanh hay chậm không phải lúc nào cũng giống nhau trên mọi cá thể mà có thể thay đổi giữa các cá thể khác nhau và bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố bên trong và cả bên ngoài cơ thể. Và mặc dù tinh khí của tạng Thận là yếu tố quyết định chính đến sự lão hoá, tất cả ngũ tạng lục phủ đều có tác động, cũng như tham gia vào quá trình lão hoá.
Tóm lại, các nguyên nhân gây lão hoá theo YHCT bao gồm:
-
Thận tinh khí giảm dần theo tuổi
-
Hoạt động của các cơ quan tạng phủ trong cơ thể suy yếu theo tuổi
-
Các yếu tố gây bệnh từ môi trường tác động đến cơ thể
-
Khí huyết hư
-
Vận hành khí huyết trong cơ thể không phù hợp
---
Quan niệm YHHĐ
Lão hóa có thể được định nghĩa là “sự suy giảm chức năng toàn bộ, tiến triển, dẫn đến tăng tính dễ bị tổn thương trước các thách thức môi trường và tăng nguy cơ mắc bệnh và tử vong. Nói chung, sự tích luỹ các tổn thương trong hệ thống của tế bào là nguyên nhân cơ bản của lão hóa. Hiện nay, tỷ lệ lớn các nghiên cứu về lão hóa tập trung vào các rối loạn liên quan đến tuổi ảnh hưởng đến tuổi thọ của người trưởng thành và lão hóa khoẻ mạnh, bao gồm bệnh tim mạch (bệnh tim, tăng huyết áp), bệnh mạch máu não (đột quỵ), ung thư, bệnh hô hấp mãn tính, đái tháo đường, rối loạn tâm thần, bệnh răng miệng và thoái hoá khớp và các rối loạn xương/khớp khác. Các yếu tố môi trường, chẳng hạn như chế độ ăn uống, hoạt động thể chất, hút thuốc và tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, tác động trực tiếp đến các rối loạn này, trong khi các thành phần di truyền quan trọng có những đóng góp riêng biệt. Mặc dù các yếu tố di truyền của cá thể có thể là những khác biệt nhỏ trong trình tự DNA như tính đa hình đơn nucleotide hoặc chèn/xóa đoạn nhỏ trong bộ gen của nhân và ty thể, đóng góp tổng thể của yếu tố di truyền vào quá trình lão hóa là đa gen và phức tạp.
Sự phức tạp của lão hóa được phản ánh qua việc có rất nhiều mô hình đã được đề xuất để giải thích tại sao và làm thế nào các sinh vật già đi và chúng chỉ giải quyết vấn đề ở mức độ hạn chế. Các mô hình được chấp nhận rộng rãi bao gồm: (1) lý thuyết stress oxy hóa liên quan đến sự suy giảm chức năng của ty thể; (2) giả thuyết về tín hiệu insulin/IGF-1 (IIS) đề xuất tuổi thọ kéo dài có liên quan đến việc giảm tín hiệu IIS; (3) các cơ chế đột biến/sửa chữa tập trung vào khả năng của tế bào đáp ứng với tổn thưởng của các thành phần của tế bào, bao gồm DNA, protein và các bào quan; (4) hệ thống miễn dịch đóng vai trò trung tâm trong quá trình lão hóa; (5) giả thuyết telomere về sự lão hóa của tế bào, liên quan đến việc mất DNA telomeric và cuối cùng là mất ổn định nhiễm sắc thể; và (6) đột biến di truyền liên quan đến nguy cơ mắc các rối loạn mãn tính và thoái hóa phổ biến.
Hình 19. Mất telomere thường giới hạn số lần phân bào.
Ghi chú: Tái bản đầu tận cùng của nhiễm sắc thể, telomere, cần một enzyme đặc biệt gọi là telomerase. Telomerase có một đoạn RNA ngắn làm khuôn, dựa vào khuôn này mà telomerase lắp ráp các đoạn trình tự lặp lại TTAGGG ở đầu tận cùng của nhiễm sắc thể. Các tế bào phôi người mang những trình tự lặp dài tới 8-10 kb ở mỗi đầu tận cùng của nhiễm sắc thể. Do DNA polymerase cần có đoạn mồi và ở đầu tận cùng của mạch chậm thì lại không mồi do đó nó không thể tái bản toàn bộ DNA ở đầu tận cùng. Telomerase vì thế rất cần thiết, và khi không có telomerase, nhiễm sắc thể ngắn lại qua mỗi lần nguyên phân. Telomerase có mặt ở các tế bào gốc và các tế bào dòng mầm, những tế bào này cần giữ cho đoạn telomere dài và thiết yếu cho sự phân bào không giới hạn. Ở phần lớn tế bào soma, telomerase do đó ngắn dần đi. Do đó, chiều dài của telomere cung cấp một giới hạn cho khả năng phân chia. Mất hoàn toàn các đoạn telomere lặp lại dẫn đến hoạt hoá quá trình sửa chữa DNA và hoạt hoá apoptosis. Tế bào ung thư thường sản xuất telomerase, cho phép chúng có thể phân chia không giới và thoát khỏi apoptosis. (Nguồn: Lodish, Harvey F. (2013), Molecular cell biology, 7th ed, W.H. Freeman and Co., New York, xxxiii, 1154, 58 p.)
Hình 20. Tái bản DNA mạch thẳng chuẩn làm DNA con bị mất một đoạn tại đầu 5’ của mỗi mạch.
Ghi chú: Hình vẽ thể hiện quá trình tái bản ở đầu bên phải của DNA mạch thẳng; quá trình y hệt xảy ra ở đầu bên trái (có thể thấy bằng cách lật ngược hình). Khi chạc tái bản tiếp cận đầu của phân tử DNA mẹ, mạch nhanh được tổng hợp liên tục cho tới cuối mạch khuôn mà không bị mất deoxyribonucleotide nào. Tuy nhiên, mạch chậm cần mồi RNA để tổng hợp nên đầu bên phải của phân tử DNA mạch chậm con sẽ là các ribonucleotide, không thể làm khuôn cho DNA polymerase. Do vậy tế bào (và virus có hệ gene DNA mạch thẳng) cần sử dụng những cơ chế khác để ngăn chặn sự ngắn dần của mạch chậm sau mỗi lần tái bản. (Nguồn: Lodish, Harvey F. (2013), Molecular cell biology, 7th ed, W.H. Freeman and Co., New York, xxxiii, 1154, 58 p.).
---
Tinh sinh tuỷ dưỡng cốt
Cốt tủy do Thận hóa sinh. Sự sinh trưởng, phát triển và hồi phục của cốt đều dựa vào sự nuôi dưỡng của Thận tinh. Nếu Thận tinh sung túc thì tủy đầy đủ, cốt sẽ chắc khỏe, theo sách Tố vấn – Âm dương ứng tượng đại luận viết “Thận tàng tinh, tinh sinh tủy, tủy dưỡng cốt”. Nếu Thận tinh không đầy đủ, tủy trống rỗng làm cho cốt ở trẻ em thì kém phát triển sinh chứng ngũ trì ngũ nhuyễn, ở người già xương cốt giòn dễ gãy, gãy thì lâu lành. Sách Tố vấn – Nuy luận viết “Thận khí nhiệt thì xương sống không thể giữ thẳng, tủy giảm sút gây liệt”, Tố vấn – Sinh khí thông thiên luận viết “Thận khí bị thương, xương cốt bị hỏng”.
Một nghiên cứu tiến hành năm 1995 trên 13 thành phố tại Trung Quốc bằng cách đo BMD tại xương quay, gót chân, cột sống thắt lưng, và cổ xương đùi của 36,879 người từ 2 đến 100 tuổi. Kết quả chứng minh 3 thời kỳ trong sự phát triển của khối lượng xương: thời kỳ tiền phát triển từ 2 đến 20 tuổi, thời kỳ phát triển cao từ 20 đến 40 tuổi, và thời kỳ lão hóa từ tuổi 40 trở đi; BMD của bệnh nhân Thận hư thì thấp hơn những bệnh nhân không có Thận hư. Chi và cộng sự sau khi kiểm tra BMD của 189 phụ nữ sau mãn kinh được chẩn đoán Thận hư cho thấy giảm có ý nghĩa so với nhóm chứng khỏe mạnh trẻ hơn 45 tuổi và lớn hơn 45 tuổi. Như vậy khi Thận hư càng nhiều có thể gây ra nguy cơ mất xương ở người lớn tuổi càng cao [7].
Khác với YHHĐ, Thận theo YHCT được cho là hệ thống phức tạp bao gồm nhiều đơn vị chức năng trong cơ thể, trong đó có một phần chức năng của Thận theo YHHĐ. Các nghiên cứu trong thời gian dài đã chứng minh Thận theo YHCT có quan hệ mật thiết với hệ nội tiết trong đó ít nhất là có liên quan với trục hạ đồi – tuyến yên – tuyến sinh dục, trục hạ đồi – tuyến yên – tuyến giáp, và trục hạ đồi – tuyến yên – tuyến thượng thận (HPA). Ping Wang và cs (2010) xây dựng mô hình âm hư trên chuột nhắt trắng cho thấy rằng Thận âm hư có liên quan với việc giảm có ý nghĩa nồng độ testosterone, estradiol, IgG trong máu, đồng thời có tăng cortisol trong máu [26]. Sự giảm nồng độ estrogen (xem phía trên) là nguyên nhân gây loãng xương. Nhiều nghiên cứu trên in vivo chứng minh các thuốc thuộc nhóm bổ thận có thể có tác dụng ngăn ngừa và điều trị loãng xương trên các mô hình chuột loãng xương do cắt buồng trứng. Cơ chế có thể do: (1) tác động lên điều hòa trục HPA làm tăng giải phóng ACTH, cortisol và β-endorphin, tăng ACTH và cortisol ức chế hoạt động của IL-1 và IL-6, dù rằng tăng β-endorphin có thể chống lại tác động ức chế của ACTH và cortisol lên hoạt động của IL-1, tuy nhiên hiệu quả ức chế toàn bộ của ACTH và cortisol lớn hơn tác động kích thích của β-endorphin; (2) trực tiếp hoặc gián tiếp kích thích tế bào C tuyến giáp thúc đẩy giải phóng calcitonin, tăng nồng độ calcitonin trong máu trực tiếp ức chế hoạt động của hủy cốt bào và hoạt hóa trục HPA, ức chế hoạt tính của IL-1 và IL-6; (3) ức chế hoạt tính của IL-1 và IL-6 ngăn chặn trực tiếp tái hấp thu xương [7]. Như vậy, các thuốc bổ Thận có thể điều hòa sự mất ổn định của mạng lưới thần kinh – nội tiết – miễn dịch (NIN) để ngăn ngừa loãng xương. Tạng Thận của YHCT có liên quan với sự ổn định và một số chức năng của NIN, vai trò Thận chủ cốt tủy có thể thông qua NIN [7].
Các thuốc bổ Thận có thể ức chế biểu hiện RANKL của tạo cốt bào và cốt bào, do đó làm giảm hoạt tính của hủy cốt bào, mặt khác thúc đẩy biểu hiện OPG làm giảm hoạt tính của hủy cốt bào. Vì vậy con đường OPG-RANKL-RANK được xem như cơ chế tác động của “Thận chủ cốt” [7]. Bài thuốc Lục vị địa hoàng hoàn là bài thuốc có tác dụng bổ Thận âm, Thận tinh kinh điển, qua nghiên cứu cho thấy hai thành phần chính trong bài thuốc là morroniside và loganin có tác động trong điều trị loãng xương và cơ chế tác động thông qua nhiều con đường, trong đó có con đường OPG-RANKL-RANK. Điều này càng khẳng định quan điểm “Thận chủ cốt” của YHCT (xem Hình 21) [15].
Thận bất túc làm tủy bất túc không nuôi dưỡng được xương. Quan sát chuột loãng xương do cắt buồng trứng thấy có tăng số lượng tế bào mỡ trong khoang tủy, trong khi các tế bào khác như tạo cốt bào và tế bào sinh dưỡng của tủy xương giảm có ý nghĩa so với nhóm chứng. Điều này phản ánh quan niệm của YHCT “tủy bất túc” liên quan với tình trạng tăng tế bào mỡ và giảm các tế bào khác của tủy xương là một cơ chế gây loãng xương do mất chức năng Thận chủ cốt [7].
Hình 21. Cơ chế phân tử của morroniside và ioganin trong điều trị loãng xương.
Ghi chú: Osteoblast, tạo cốt bào; pro-osteoclast, tiền hủy cốt bào; differentiation, biệt hóa; apoptosis, chết tế bào theo chương trình; osteoclast, hủy cốt bào; osteogenesis, tạo xương; osteolysis, hủy xương; osteoporosis, loãng xương. Alkaline phophastase, phosphastase kiềm. (Nguồn: Li, M., et al. (2010), "The pharmacological effects of morroniside and loganin isolated from Liuweidihuang Wan, on MC3T3-E1 cells", Molecules. 15(10), pp. 7403-14.)
---
Tinh liên quan não tuỷ
Quan niệm YHHĐ
Sa sút trí tuệ đề cập đến một tiến trình bệnh tật được đánh dấu bởi suy giảm nhận thức tiến triển. Sa sút trí tuệ không đề cập đến chức năng trí tuệ thấp hoặc chậm phát triển tâm thần vì đây là những tình trạng phát triển nhận thức và tĩnh, và sự suy giảm nhận thức trong sa sút trí tuệ làm giảm mức độ chức năng trước đây. Sa sút trí tuệ liên quan đến nhiều lĩnh vực nhận thức và khiếm khuyết nhận thức gây ra sự suy yếu đáng kể trong hoạt động xã hội và nghề nghiệp. Có bốn loại sa sút trí tuệ dựa trên nguyên nhân: bệnh Alzheimer, sa sút trí tuệ thể Lewy, sa sút trí tuệ mạch máu, sa sút trí tuệ trán thái dương, chấn thương sọ não, HIV, bệnh prion, bệnh Parkinson và bệnh Hutington. Sa sút trí tuệ cũng có thể gây ra bởi các bệnh lý nội khoa và thần kinh khác hoặc có thể là do các chất khác nhau [22].
Với dân số già, tỷ lệ mắc sa sút trí tuệ đang tăng lên. Tỷ lệ mắc sa sút trí tuệ mức độ trung bình và trầm trọng ở các nhóm dân số khác nhau xấp xỉ 5% trong tổng dân số trên 65 tuổi, từ 20 % đến 40 % trên tổng dân số trên 85 tuổi, 15 % đến 20 % trong bệnh nhân tổng quát ngoại trú, và 50 % trong các cơ sở chăm sóc mãn tính. Trong số tất cả các bệnh nhân sa sút trí tuệ, 50 đến 60 phần trăm mắc loại sa sút trí tuệ phổ biến nhất là sa sút trí tuệ do bệnh Alzheimer. Tỷ lệ sa sút trí tuệ Alzheimer tăng lên theo tuổi. Đối với những người 65 tuổi, nam giới có tỷ lệ hiện mắc 0,6 % và phụ nữ là 0,8 %. Ở tuổi 90, tỷ lệ là 21 % [22].
Bệnh Alzheimer có từ 2 đến 5 % các trường hợp bệnh di truyền theo thể trội nhiễm sắc thể thường. Ba đột biến gen đã được biết gây ra kiểu di truyền này: (1) đột biến ở protein tiền chất amyloid (APP) trên nhiễm sắc thể số 21 (bởi vì gần như có sự liên quan hằng định gữa bệnh học AD với hội chứng Down/trisomy 21); (2) protein presenilin 1 trên nhiễm sắc thể 14; (3) preotein presenilin 2 trên nhiễm sắc thể 1. Những đột biến này gây ra tăng tích tụ protein 42 β amyloid (Aβ), được cho là thể độc tính thần kinh của Aβ. Các protein mã hóa bởi presenilin 1 và presenilin 2 liên quan đến sự phân cắt APP từ đó tạo ra Aβ [19].
Bệnh nhân AD với thể di truyền trội nhiễm sắc thể thường có tuổi khởi phát sớm hơn, thường trước 60 tuổi hay thậm chí là từ 30 đến 40 tuổi. 95 % còn lại xuất hiện tản phát, với một số loại trừ một vài gia đình không có di truyền trội đã được mô tả: những bệnh nhân này thường có triệu chứng sau 60 tuổi, nhiều yếu tố di truyền và môi trường có thể đóng vai trò trong sự tiến triển và thời gian bệnh AD trong các trường hợp tản phát. Các yếu tố sau có thể làm tăng nguy cơ bị bệnh AD trên lâm sàng: (1) có người thân thế hệ thứ nhất bị bệnh AD; (2) có tiền sử đột quỵ hoặc chấn thương đầu (đặc biệt nếu có mất ý thức); (3) giới nữ; (4) sự hiện diện của alen ε4 của gen APOE trên nhiễm sắc thể 19, vốn mã hóa cho một orotein vận chuyển cholesterol có thể liên quan đến sự thanh lọc Aβ, ít nhất 1 alen ε4 làm tăng nguy cơ bệnh AD lên gấp 3 lần, bệnh nhân có alen ε4 cũng có xu hướng có tuỗi khởi phát sớm hơn, trái lại bệnh nhân có alen ε2 có thể giảm nguy cơ bệnh AD, alen ε2 có vai trò bảo vệ [19].
Bệnh Alzheimer là hậu quả của quá trình thoái hóa gây ra chết tế bào thần kinh. Hai hình ảnh giải phẫu học chính là các mảng amyloid và các đám rối sợi thần kinh. Sự tạo thành amyloid β-42 (giả thuyết dòng thác amyloid): các protein tiền chất amyloid (APP) là những glucoprotein nằm trên bề mặt màng tế bào, đặc biệt rất nhiều trên màng thần kinh, có vai trò trong sự điều hòa sự sống, tăng trưởng và kết hợp các tế bào thần kinh. Các APP này bình thường, khi được cắt bởi men α-secretase sẽ ạo thành các đoạn hòa tan và không bị kết lại. Nhưng khi APP bị cắt bởi β-secretase và γ-secretase sẽ tạo thành amyloid β-40 và amyloid β-42. Sản phẩm amyloid β-42 là một chất không hòa tan sẽ kết tụ lại tạo thành mảng amyloid. Nhiều mảng amyloid trong khoảng gian bào sẽ kích thích quá trình viêm, lớn lên dần và chèn ép gây chất tế bào thần kinh. Sự tạo thành đám rối sợi thần kinh (giả thuyết Tau-protein): bình thường tau-protein là những vi ống nhỏ có vai trò chuyên chở các chất trong tế bào thần kinh. Do quá trình phosphoryl hóa bất thường, các vi ống này bị xoắn lại tạo nên các đám rối sợi thần kinh (NFTs) trong thân tế bào và phần gốc của sợi trục thần kinh. Quá trình này đã làm phá vỡ chức năng màng tế bào và gây chết tế bào [19].
Có sự suy giảm nồng độ acetylcholine và hoạt tính của men choline acetyltransferase gây ra thoái hóa nền não trước. Sự mất accetylcholine liên quan đến giảm trí nhớ và nhận thức, đây là mục tiêu để can thiệp. Hiệu quả của thuốc cholinesterase đã nêu lên vai trò của sự thiếu hụt acetylcholine trong hiện tượng lâm sàng. Một số chất dẫn truyền thần kinh khác cũng suy giảm [19].
---
Quan niệm YHCT
Y học cổ truyền cho rằng não là nơi cao nhất của cơ thể, là nơi mà từ đó đưa tinh hoa khí huyết của tạng phủ đi khắp cơ thể để phát huy tác dụng trong thì làm thông tạng phủ, ngoài thì bảo vệ cơ thể. Não vi nguyên thần chi phủ (chỗ trú ngụ nguyên thần), là nguồn gốc của thần cơ (trí khôn) và não chủ toàn thân [30]. Khi cơ thể về già, hoặc bệnh lâu ngày tạng phủ hư suy, hoặc sau khi trúng phong, âm dương bất điều, khí huyết tinh tủy chuyển hóa thất thường, khí cơ thăng giáng nghịch loạn, đàm trệ huyết ngưng làm ảnh hưởng đến công năng của não mà gây bệnh [9].
Thận chủ cốt sinh tủy mà thông với não, thận tinh suy tổn, não tủy không có nguồn bổ sung nên thần cơ mất đi sự khống chế bình thường, âm dương mất đi sự điều chỉnh cần có mà gây ra mê hoặc (mê muội), ngu độn, phản ứng chậm chạp. Lâm Nghĩa Đồng viết “thần của người thác ở tâm, tính của tâm dựa vào thận, còn não là phủ của nguyên thần, là bể của tinh tủy, là sự nhớ đều thuộc nó”, “suy tư quá độ, làm tổn thương tâm bào, làm cho chỗ ở của thần không trong sạch, gặp sự việc thì hay quên”. Uông Ngang viết “tinh và chí của người ta tàng ở thận, thận tinh không đủ thì chí khí suy, thận khí không thông lên tâm được cho nên mê muội chóng quên” [30].
Lý thuyết "thận nuôi dưỡng tủy và não là bể của tủy" đã hướng dẫn y học cổ truyền trong việc phòng ngừa và điều trị bệnh sa sút trí tuệ ở người già hàng nghìn năm nay. Tuy nhiên, cơ sở sinh học hiện đại của lý thuyết này chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống. Li Lin và cộng sự đã tóm tắt các nghiên cứu dược lý về điều trị bệnh Alzheimer (AD) bằng các loại dược liệu, sử dụng nhiều mô hình AD trên động vật và tế bào. Các kết quả cho thấy các dược thảo "bổ thận" của y học cổ truyền đóng một vai trò rất quan trọng trong các tác dụng chống AD; và các loại dược thảo "bổ thận" khác nhau có tác dụng khác nhau trên chức năng não. Tác dụng phổ biến của các loại dược thảo bổ thận thúc đẩy quá trình chuyển hóa năng lượng tế bào, tăng các yếu tố tăng trưởng thần kinh và số lượng neuron cholinergic và giảm sản xuất chất độc thần kinh. Dựa trên các kết quả trên, các tác giả đề xuất rằng bản chất của "tủy não" là các neuron và các yếu tố dinh dưỡng thần kinh trong não; "tủy não hư suy" được gây ra bởi sự giảm các yếu tố dinh dưỡng thần kinh, teo và mất neuron trong não, dẫn đến suy giảm nhận thức và sa sút trí tuệ. Cơ sở sinh học hiện đại của "bổ thận để bổ tủy" bằng y học cổ truyền bao gồm cải thiện sự trao đổi và sử dụng năng lượng tế bào, tăng cường các yếu tố dinh dưỡng thần kinh ngoại sinh và giảm sản xuất chất độc thần kinh, làm giảm sự chết tế bào và tăng sự sống còn và tái tạo các neuron [17].
---
Bệnh của tinh
Thận tinh bất túc
Lâm sàng: trẻ em phát dục muộn, người gầy yếu, trí tuệ kém phát triển, cốt tủy mềm yếu, động tác chậm chạp; nam giới thì tinh ít, bất lực; nữ giới vô kinh, kinh bế, khả năng thụ thai giảm; người già lão suy sớm; tai ù, hay quên, hốt hoảng, chi dưới mềm yếu, răng lung lay, tóc rụng, lưỡi nhạt, mạch vi nhược [1].
Nguyên nhân: Thận tinh bất túc thường do tiên thiên bất túc, hoặc do hậu thiên thất điều, hoặc lao thương quá độ, phòng dục không tiết chế, bệnh lâu ngày làm hao thương thận tinh [1].
Phân tích: Thận tinh bất túc không thể hóa khí sinh huyết, không nuôi dưỡng cơ nhục cốt tủy nên thấy trẻ em chậm phát dục, người gầy, xương cốt mềm yếu, khí huyết không cung cấp đủ lên não gây trí tuệ kém phát triển. Thận tinh bất túc, tinh sinh dục suy giảm nên trên nam giới thấy tinh ít, khả năng sinh dục giảm, nữ thấy bế kinh, khả năng thụ thai giảm. Thận vinh nhuận ra tóc, tinh bất túc làm tóc dễ gãy rụng, răng là phần thừa của cốt, tinh không sung túc làm răng lung lay dễ rụng. Thận khai khiếu ra tai, não là bể của tủy, Thận tinh bất túc thì tai ù, hay quên. Tinh hao, cốt mất nuôi dưỡng nên hai chân mềm yếu, động tác chậm chạp. Thận âm hư và Thận tinh bất túc khác nhau ở điểm Thận âm hư có nội nhiệt còn Thận tinh bất túc không có biểu hiện của hư nhiệt chứng [1].
Chứng Thận tinh bất túc thường gặp trong các bệnh ngũ trì ngũ nhuyễn, nuy chứng, huyễn vựng, hư lao, dương nuy [28]. Trong chứng ngũ trì ngũ nhuyễn ở trẻ em, đặc trưng là đủ tháng tuổi mà vẫn chưa mọc răng, chưa đóng thóp, chưa đi đứng được, chậm phát triển trí tuệ, người gầy do tiên thiên bất túc, hậu thiên nuôi dưỡng kém dẫn đến Thận tinh bất túc, điều trị nên bổ thận điền tinh dùng bài Lục vị địa hoàng hoàn (Y tông kim giám). Trong chứng nuy do thận tinh bất túc có đặc trưng hai chi dưới yếu liệt từ từ, lưng yếu, Trương Cảnh Nhạc cho rằng do nguyên khí tổn thương thì tinh hư không tưới khắp được, điều trị dùng bài Hồ tiềm hoàn (Đan Khê tâm pháp). Trong chứng huyễn vựng do thận tinh bất túc đặc trưng chóng mặt, hay quên, lưng gối đau mỏi, thận tinh bất túc tuỷ hải rỗng không, điều trị nên bổ thận ích tinh, dùng bài Tả quy hoàn (Cảnh Nhạc toàn thư). Trong các chứng hư lao, dương nuy do thận tinh bất túc thường kèm theo di tinh, nữ thì kinh ít, không thụ thai, điều trị nên bổ thận, dùng bài Đại bổ nguyên tiễn (Y phương tập giải)[28].
---
Các bệnh lý YHHĐ liên quan với Tinh theo YHCT
Loãng xương
Dựa trên cơ sở lý luận “thận chủ cốt tuỷ”, “tinh sinh tuỷ, tuỷ dưỡng cốt” các nghiên cứu đã khảo sát tác dụng của các thuốc thuộc nhóm bổ thận mạnh gân cốt trong điều trị bệnh lý loãng xương. Nhiều công trình nghiên cứu từ tiền lâm sàng cho đến lâm sàng đã chứng minh hiệu quả của các thảo dược này, đồng thời qua đó chứng minh được mối liên hệ giữa thận tinh với sức khoẻ xương.
Deng Wei-min và cs (2012) [4] tiến hành nghiên cứu RCT đa trung tâm, thời gian theo dõi 5 năm để đánh giá hiệu quả của Fufang (gồm 6 loại thảo dược Dâm dương hoắc - Herba epimedii, Thục địa - Rehmannia glutinosa, Hoài sơn - Dioscorea batatas, Sơn thù - Cornus officinalis, Nhục quế - Cinnamomum cassia, Cốt toái bổ - Drynaria fortunei, Ba kích - Morinda officinalis) trên bệnh nhân loãng xương sau mãn kinh. Tổng cộng có 194 bệnh nhân (47-70 tuổi) đưa vào nghiên cứu, trong đó các đối tượng được uống thuốc thảo dược Fufang (10 g/ngày, hai lần mỗi ngày, n = 101) hoặc giả dược (n = 93). Cả hai nhóm được bổ sung hàng ngày với calcium (600 mg) và vitamin D (400 IU). Sau 5 năm, 155 đối tượng đã hoàn thành nghiên cứu kết quả cho thấy nhóm điều trị có BMD tăng đáng kể so với ban đầu (0.211 ± 0.022 g/cm2) vào cuối nghiên cứu (0.284 ± 0.015 g/cm2), trong khi nhóm chứng giảm đáng kể so với ban đầu (0.212 ± 0.023 g/cm2) đến 5 năm sau (0.187 ± 0.022 g/cm2) (P <0.05). Tỷ lệ gãy xương ở nhóm điều trị giảm 2.4 lần so với nhóm chứng, với nguy cơ tương đối là 0.57 ở nhóm điều trị (95% CI = 0.43-0.70; P <0.05) (xem Hình 14). Sự tuân thủ tốt hơn trong nhóm điều trị (13% dừng nghiên cứu, n = 88 ở năm 5) so với nhóm chứng (28% dừng nghiên cứu, n = 67 ở năm 5) (P <0.05). Không có tác dụng bất lợi đáng chú ý được quan sát ở cả hai nhóm. Kết luận cho thấy Fufang an toàn trong ngăn ngừa loãng xương sau mãn kinh và làm giảm nguy cơ gãy xương.
Hình 22. Tỷ lệ gãy xương sau 5 năm (A) và số lượng bệnh nhân sau mỗi năm (B). BZG: thuốc viên Fufang BZG; Control group: nhóm chứng; *: P<0.05.
Li Jin-Yu và cs (2017) [14] phân tích gộp 8 RCT đánh giá tác dụng của Nhị tiên thang (EXD) [thành phần gồm Epimedii Folium (Dâm dương hoắc), Curculiginis Rhizoma (Tiên mao), Morindae Offcinalis Radix (Ba kích thiên), Anemarrhenae rhizoma (Tri mẫu), Phellodendri Chinensis Cortex (Hoàng bá), Angelicae sinensis radix (Đương quy)] trong điều trị loãng xương. Tổng số bệnh nhân đưa vào phân tích là 644, tuổi từ 40 đến 70, nhóm can thiệp sử dụng EXD đơn độc hoặc kết hợp thuốc Tây y, liều EXD khác nhau tùy nghiên cứu, nhóm chứng sử dụng thuốc thường quy điều trị loãng xương, thời gian nghiên cứu từ 2 đến 6 tháng. Kết quả phân tích gộp cho thấy EXD cải thiện BMD cột sống thắt lưng so với nhóm chứng (MD: 0.05 [0.03, 0.06]; I2=0%; P,0.00001) (xem Hình 15). Không có tác dụng phụ nghiêm trọng được báo cáo ở nhóm can thiệp. Chất lượng nghiên cứu thấp và cần thêm các RCT thiết kế tốt hơn với cỡ mẫu lớn trước khi đưa ra kết luận.
Hình 23. Hiệu quả của Nhị tiên thang phối hợp với thuốc Tây y so với thuốc Tây y trên BMD cột sống thắt lưng. (A) Nhị tiên thang kết hợp caltrate so với caltrate. (B) Nhị tiên thang kết hợp caltrate và calcitriol so với caltrate và calcitriol. EXD: Nhị tiên thang.
Wei Xu và cs (2017) [27] phân tích gộp từ 10 RCT nghiên cứu về hiệu quả của Qianggu (thành phần là flavonoid toàn phần của Cốt toái bổ - Rhizoma Drynariae) đối với loãng xương nguyên phát. Tổng cộng có 804 bệnh nhân, tuổi trung bình từ 57.9 – 70.4 được đưa vào phân tích. Kết quả cho thấy Qianggu Capsule cộng với Caltrate D tốt hơn Caltrate D trên BMD cột sống (MD = 0.05 g/cm2; 95% CI = 0.02-0.07; P = 0.0004), BMD cổ xương đùi (MD = 0.03 g/cm2, 95% CI = 0.01-0.05; P = 0.001), BMD mấu chuyển lớn xương đùi (BM = 0.04 g/cm2, 95% CI = 0.03-0.06; P <0.001) (xem Hình 16). Phân tích gộp cũng cho thấy tác dụng chống loãng xương của thuốc Qianggu Capsule đối với BMD cổ xương đùi (MD = 0.03 g/cm2; 95% CI = 0.01-0.05; P = 0.003) và BMD mấu chuyển lớn xương đùi (MD = 0.07 g/cm2; 95% CI = 0.02-0.12; P = 0.006) so với viên nang α-D3 (xem Hình 17). Táo bón và khô miệng là các phản ứng bất lợi của thuốc Qianggu Capsule. Tuy nhiên, chất lượng phương pháp của các nghiên cứu thấp và mức chứng cứ của phân tích gộp được đánh giá là thấp hoặc rất thấp.
Hình 24. Phân tích gộp hiệu quả của Qianggu so với Caltrate D trên BMD cột sống thắt lưng (A), BMD cổ xương đùi (B), BMD mấu chuyển lớn xương đùi (C).
---
Vô sinh
Các nghiên cứu đã cho thấy tác động của thuốc bổ thận tinh trong điều trị vô sinh. Nghiên cứu của Zhang, Zhao, and Zhang (2007) dùng bài Bổ thận sinh tinh 2-3 tháng trước khi can thiệp ICSI (tiêm tinh trùng vào trứng). Kết quả làm tăng khả năng thành công khi làm ICSI. Hai nghiên cứu của Wang, Chen, et al. (2008) và Wang, Huang, and Liang (2008) sử dụng Ngũ tử diễn tông hoàn kết hợp châm cứu (Khí hải, Quan nguyên, Trung cực) làm cải thiện tỷ lệ mang thai trên người thiểu tinh nặng. Liao et al. (2013) nghiên cứu các phác đồ Hữu quy ẩm phối hợp Ngũ tử diễn tông hoàn; Kim quỹ thận khí hoàn phối hợp Ngũ tử diễn tông hoàn; Thập tử hoàn. Kết quả cả 3 phác đồ làm tăng khả năng di động của tinh trùng sau 1 tháng. Liu, Wang, and Guo (2015) nghiên cứu bài Ngũ tử diễn tông hoàn, và Ích thận chủng tử thang cho thấy cả hai bài đều làm cải thiện khả năng di động của tinh trùng sau 1 tháng điều trị [6]. Gần đây, một phân tích gộp của nhóm tác giả Ming Peng Zhao và cs (2018) [29] về hiệu quả của bài thuốc Ngũ tử diễn tông hoàn trong điều trị vô sinh nam. Bài thuốc được hình thành theo lý luận YHCT dùng để bổ thận. Kết quả phân tích gộp cho thấy bài thuốc Ngũ tử diễn tông hoàn có khả năng cải thiện mật độ tinh trùng và khả năng di động của tinh trùng trên các bệnh nhân nam vô sinh do thiểu tinh (xem Hình 25, Hình 26).
Hình 25. Phân tích gộp về hiệu quả trên mật độ tinh trùng
Hình 26. Phân tích gộp hiệu quả trên độ di động của tinh trùng
Một nghiên cứu khác về bài Lục vị địa hoàng cũng chứng minh mối liên quan giữa Thận tinh và chức năng sinh sản là nghiên cứu của nhóm tác giả Lian và cs (2014)[16]. Mục đích của nghiên cứu là đánh giá tác động của Lục vị địa hoàng (bài thuốc có tác dụng bổ Thận âm theo YHCT) đối với kết quả thụ tinh trong ống nghiệm (IVF-ET, in vitro fertilization pre-embryo transfer) trên phụ nữ vô sinh có hội chứng thận âm hư theo YHCT, đồng thời tìm hiểu cơ chế tác động thông qua biểu hiện protein trong dịch nang trứng. Tiêu chuẩn chọn mẫu: nữ 25-40 tuổi, được chẩn đoán vô sinh và có tắc ống dẫn trứng; trong số nhóm thận âm hư bệnh nhân được chẩn đoán Thận âm hư theo YHCT. Không có yếu tố vô sinh từ chồng/partner. Hormone trong giới hạn bình thường. Tổng cộng có 99 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu. Trong đó 33 bn thuộc nhóm thận âm hư và được can thiệp LVDH, 33 bn có hội chứng Thận âm hư sử dụng placebo làm nhóm chứng, 33 bn không có hội chứng Thận âm hư. Can thiệp: nhóm can thiệp dùng LVDH 6g/lần x 3 lần/ngày, từ ngày 3 đến ngày 14 của CK kinh nguyệt, dùng trong 3 chu kỳ liên tiếp trước chuyển phôi. Sử dụng phương pháp điện di protein 2 chiều (Two dimensional gel electrophoresis, 2D), sau đó dùng khối phổ với phương pháp tính thời gian bay (MALDI-TOF-MS) để xác định thành phần protein trong dịch nang trứng. Kết quả cho thấy ở nhóm can thiệp tỷ lệ phôi chất lượng tốt và tỷ lệ có thai trên lâm sàng cao hơn nhóm chứng. Phân tích protein cho thấy ở nhóm can thiệp phát hiện có biểu hiện khác biệt ở 28 protein, 15 điều hoà hướng xuống, 13 điều hoà hướng lên, thông qua MALDI-TOF-MS định danh được 14 protein (haptoglobin, retinol binding protein 4, transthyretin, apolipoprotein A-Ⅰ , apolipoprotein E, complement C4-B, human surface immunoglobulin antigen related protein, immunoglobulin polypeptide 5, immunoglobulin heavy chain, antiRHD blood type gamma heavy chain, albumin, α -1Bglycoprotein, plasma proteinase inhibitor C1, fibirinogen β chain.
Hình 27. So sánh tỷ lệ phôi chất lượng tốt và tỷ lệ mang thai trên lâm sàng giữa các nhóm.
Ghi chú: * P<0.05 so với nhóm chứng. (Nguồn: Lian, F., Wu, H. C., Sun, Z. G., Guo, Y., Shi, L., & Xue, M. Y. (2014). Effects of Liuwei Dihuang Granule (六味地黄颗粒) on the outcomes of in vitro fertilization pre-embryo transfer in infertility women with Kidney-yin deficiency syndrome and the proteome expressions in the follicular fluid. Chinese journal of integrative medicine, 20(7), 503-509.)
---
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bảo, Trần Quốc (2010), Lý luận cơ bản y học cổ truyền, NXB Y Học, pp. 64-66, 100-102.
2. Cai, De-Pei, et al. (2006), "Effects of Chinese herbal medicine on modulating the course of puberty development in children with precocious puberty", Zhong xi yi jie he xue bao= Journal of Chinese integrative medicine. 4(2), pp. 166-174.
3. Capra, Fritjof (2015), Đạo của vật lý, NXB Tổng Hợp Thành Phố Hồ Chí Minh.
4. Deng, Wei-min, et al. (2012), "Five-year follow-up study of a kidney-tonifying herbal Fufang for prevention of postmenopausal osteoporosis and fragility fractures", Journal of bone and mineral metabolism. 30(5), pp. 517-524.
5. Hall, John E. (2015), Guyton and Hall textbook of medical physiology e-Book, Elsevier Health Sciences.
6. Jiang, Dan, et al. (2017), "Effect of Chinese Herbal Medicine on Male Infertility", International review of neurobiology, Elsevier, pp. 297-311.
7. Ju, Dahong, et al. (2014), "Mechanisms of “kidney governing bones” theory in traditional Chinese medicine", Frontiers of medicine. 8(3), pp. 389-393.
8. Kaku, Michio (2015), Các thế giới song song, NXB Thế Giới.
9. Khánh, Phạm Vũ (2011), Lão khoa y học cổ truyền, NXB Giáo dục Việt Nam.
10. Khìu, Bành Văn and Khánh, Đặng Quốc (2002), Những học thuyết cơ bản của y học cổ truyền, NXB Hà Nội, pp. 105-109.
11. Khìu, Bành Văn and Khánh, Đặng Quốc (2002), Những học thuyết cơ bản của y học cổ truyền, NXB Hà Nội.
12. Krauss, Lawrence M. (2019), Vũ trụ từ hư không, NXB Thế Giới.
13. Leong, Pou Kuan, et al. (2015), "Yang/Qi invigoration: an herbal therapy for chronic fatigue syndrome with yang deficiency?", Evidence-Based Complementary and Alternative Medicine. 2015.
14. Li, Jin-Yu, et al. (2017), "Effects of Chinese herbal formula Erxian decoction for treating osteoporosis: a systematic review", Clinical interventions in aging. 12, p. 45.
15. Li, Manyu, et al. (2010), "The pharmacological effects of morroniside and loganin isolated from Liuweidihuang Wan, on MC3T3-E1 cells", Molecules. 15(10), pp. 7403-7414.
16. Lian, Fang, et al. (2014), "Effects of Liuwei Dihuang Granule (六味地黄颗粒) on the outcomes of in vitro fertilization pre-embryo transfer in infertility women with Kidney-yin deficiency syndrome and the proteome expressions in the follicular fluid", Chinese journal of integrative medicine. 20(7), pp. 503-509.
17. Lin, L. I., et al. (2006), "Modern biological basis of Chinese medical theory that “kidney nourishes marrow and brain is sea of marrow”[J]", China Journal of Chinese Materia Medica. 17.
18. Lodish, Harvey, et al. (2016), Molecular cell biology, W H Freeman.
19. Nhị, Vũ Anh (2015), Điều trị bệnh thần kinh, NXB Đại Học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh.
20. Organization, World Health (2007), WHO international standard terminologies on traditional medicine in the western pacific region, Manila: WHO Regional Office for the Western Pacific.
21. Ren, Yan-bo, et al. (2015), "Shen-Jing as a Chinese medicine concept might be a counterpart of stem cells in regenerative medicine", Chinese journal of integrative medicine, pp. 1-7.
22. Sadock, Benjamin J. and Sadock, Virginia A. (2015), Kaplan and Sadock's synopsis of psychiatry: Behavioral sciences/clinical psychiatry, Lippincott Williams & Wilkins.
23. Sun, Jing, et al. (2016), "To unveil the molecular mechanisms of qi and blood through systems biology-based investigation into Si-Jun-Zi-Tang and Si-Wu-Tang formulae", Scientific reports. 6, p. 34328.
24. Thành, Tiến (2017), Hoàng đế nội kinh linh khu, NXB Hồng Đức.
25. Thúy, Trần, Nam, Vũ, and Kim, Nguyễn Nhược (2016), Nội kinh, NXB Y Học, Hà Nội.
26. Wang, Ping, et al. (2010), "Thyroxine and reserpine-induced changes in metabolic profiles of rat urine and the therapeutic effect of Liu Wei Di Huang Wan detected by UPLC-HDMS", Journal of pharmaceutical and biomedical analysis. 53(3), pp. 631-645.
27. Wei, Xu, et al. (2017), "Qianggu capsule for the treatment of primary osteoporosis: evidence from a Chinese patent medicine", BMC complementary and alternative medicine. 17(1), p. 108.
28. Y, Viện nghiên cứu Trung (2008), Chẩn đoán phân biệt chứng hậu trong Đông y, NXB Văn Hóa Dân Tộc.
29. Zhao, Ming Peng, et al. (2018), "The therapeutic effects of a traditional chinese medicine formula wuzi yanzong pill for the treatment of oligoasthenozoospermia: A meta-analysis of randomized controlled trials", Evidence-Based Complementary and Alternative Medicine. 2018.
30. 王永炎 and 鲁兆麟 (2011), 中医内科学, 人民卫生出版社.
31. Abreu, Ana Paula and Kaiser, Ursula B. (2016), "Pubertal development and regulation", The lancet. Diabetes & endocrinology. 4(3), pp. 254-264.