BIOFEEDBACK
Định nghĩa
Phản hồi sinh học (biofeedback) là một phương pháp điều trị và kiểm soát cơ thể sử dụng nhiều cảm biến khác nhau để đo lường các chức năng, thông số và hoạt động sinh lý và thể chất của con người (bio) mà bình thường không biết hoặc không thể cảm nhận được bằng các giác quan. Các tín hiệu và dữ liệu cảm nhận được sẽ được xử lý và kết quả được truyền lại cho con người (feedback) thông qua một trong các giác quan của con người (như thị giác, thính giác, xúc giác). Con người sẽ cố gắng hành động dựa trên thông tin nhận được để thay đổi các chức năng, thông số và hoạt động theo cách họ mong muốn[3].
Sơ đồ Hình 1 cho thấy một chu trình tuần hoàn trong đó một người ở trong chu kỳ với các yếu tố hoặc khối chức năng trải qua các quá trình cảm nhận, xử lý và đưa ra phản hồi. Vòng lặp phản hồi sinh học được khép kín, nếu người đó hiểu thông tin phản hồi và hành động tương ứng[3].

Hình 1. Chu trình biofeedback
---
Phân loại
Biofeedback được phân thành 2 nhóm chính (Giggins et al. 2013): biofeedback sinh lý học (physiological biofeedback) và biofeedback cơ sinh học (biomechanical biofeedback). Biofeedback sinh lý học gắn kết các quá trình sinh lý và trạng thái của cơ thể; biofeedback sinh cơ học gắn kết hoạt động của cơ thể và trạng thái của cơ thể.
Biofeedback sinh lý học dựa trên tín hiệu và thông số thu được từ hệ thống thần kinh cơ, hệ tim mạch, hệ hô hấp, não, da, và các hệ thống khác của cơ thể. Các ví dụ của tín hiệu sinh lý là mạch của động mạch quay, tín hiệu điện tâm đồ (ECG), tín hiệu tuần hoàn tim mạch quang đồ (photoplethysmogram), tín hiệu điện não đồ (EEG), hình ảnh cộng hưởng từ chức năng (fMRI), và các tín hiệu khác. Các thông số sinh lý như nhiệt độ, nhịp tim, nồng độ glucose máu, nhịp thở, độ bão hoà oxy máu, và các thông số khác. Biofeedback sinh lý được sử dụng trong y học cũng như trong vật lý trị liệu và phục hồi chức năng[3].
Biofeedback sinh cơ học dựa trên tín hiệu và thông số thu nhận từ sự đo lường vận động của cơ thể hoặc một phần của cơ thể, tư thế, và lực phát sinh từ cơ thể hoặc lực tác động lên cơ thể. Ví dụ về tín hiệu sinh cơ học như gia tốc của cơ thể, tốc độ xoay của cơ thể quanh trục của nó, tốc độ của cơ thể, lực cơ thể tiếp xúc với mặt đất, và nhưng tín hiệu khác. Các ví dụ về thông số sinh cơ học như tư thế cơ thể lúc nghỉ, tỉ số lực của chân trái và chân phải trong lúc nhảy, trọng tâm của cơ thể, góc xoay tối đa quanh trục dọc cơ thể khi bơi, sự đối xứng khi đi bộ hoặc chạy, và nhiều thông số khác. Biofeedback sinh cơ học được dùng trong phục hồi chức năng và thể thao[3].

Hình 2. Phân loại biofeedback
---
Ứng dụng biofeedback
Biofeedback được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực y khoa, phục hồi chức năng, và thể thao. Biofeedback ứng dụng trong y học nhằm hỗ trợ điều trị hoặc cải thiện các bệnh lý; như rối loạn giấc ngủ, stress, nghiện chất, đau đầu migraine, động kinh, tăng huyết áp, các bệnh lý hô hấp, và nhiều bệnh lý khác. Ứng dụng trong y học thường dùng các phương pháp và kỹ thuật biofeedback sinh lý học[3].
Biofeedback ứng dụng trong phục hồi chức năng tập trung chính vào tái điều chỉnh sau bệnh lý, chấn thương, và tổn thương; như phục hồi sau đột quỵ, rối loạn chức năng cơ do tổn thương, kiểm soát vận động, và nhiều tình trạng khác. Ứng dụng trong phục hồi chức năng dùng các phương pháp và kỹ thuật biofeedback sinh cơ học (Alahakone and Senanayake 2010; Franco et al. 2013; Giggins et al. 2013; Giggins et al. 2014; Huang et al. 2006; Kos and Umek 2018; Parvis et al. 2017; Silva 2014)[3].
---
Cơ chế thần kinh của biofeedback
Các nghiên cứu phản hồi thần kinh với nhiều vùng đích khác nhau được xác định trong mạng lưới điều hoà, mà đáng chú ý là các vùng trước thuỳ đảo (anterior insula cortex, AIC), hạch nền, vùng thái dương-đỉnh, vùng vỏ não trước đai (ACC), lưng vỏ não trước trán (dorsolateral prefrontal cortex, dlPFC), vùng bụng bên vỏ não trước trán (ventrolateral prefrontal cortex, vlPFC) và vùng liên quan thị giác bao gồm kết nối thái dương-chẩm[1].
Hoạt hoá vùng trước thuỳ đảo xảy ra trong quá trình nhận cảm nhận thức và tự nhận thức. Ngoài ra, vùng AIC phải và vùng liền kề vlPFC liên quan trong nhiệm vụ kiểm soát nhận thức như ức chế vận động, thay đổi thái độ và hoạt động cập nhật hoá sử dụng liên kết trán hạch nền (fronto-basal-ganglia). Tương tự, hạch nền liên quan quá trình nhận cảm và tiến trình hình thành động cơ, điều này cần thiết trong tác vụ feedback. Hơn nữa, hạch nền cần thiết cho việc học tập; trong khi vùng lưng giữa thể vân (dorsomedial striatum) liên quan với học tập thuộc về tường thuật, vùng giữa lưng thể vân là khu vực quan trọng trung gian tiến trình học tập. Đáng chú ý, nhiệm vụ kiểm soát nhận thức thường do mạng lưới trán-hạch nền, điều này giải thích tại sao có sự hoát của cả vùng AIC/vlPFC và hạch nền[1].
Hoạt hoá vùng thái dương-đỉnh có thể liên quan với sự tích hợp của phản hồi thị giác và phản hồi liên quan với tiến trình gợi lại trí nhớ, cũng như tiến trình tự xử lý và tích hợp đa cảm giác của thông tin cơ thể. Hoạt hoá vùng sau ACC có thể phản ánh khuynh hướng động cơ của neurofeedback như hiệu ứng thưởng của phản hồi dương tính và phạt của phản hồi âm tính. Vùng dlPFC và vùng tiến vận động liên quan trong hoạt động tưởng tượng, điều này liên quan với hình tượng tinh thần được sử dụng trong suốt quá trình neurofeedback. Cuối cùng, hoạt hoá các vùng liên quan đến thị giác và hoạt hoá vòng kết nối thái dương-chẩm có thể phản ánh hình ảnh thị giác, cũng như tiến trình phản hồi thị giác[1].
Trong các phân tích cho thấy một vài vùng não bị bất hoạt trong quá trình neurofeedback, bao gồm PCC và hồi trước nêm (precuneus). Những vùng này là một phần của mạng lưới chế độ mặc định, chúng bị bất hoạt một cách hằng định suốt tác vụ đòi hỏi nhận thức. Hơn nữa, vùng thái dương ngang cũng cho thấy bị bất hoạt, có thể là phản ánh chuyển đổi trọng tâm ra khỏi nhiễu trong tác vụ, sự giảm hoạt hoá thính giác do phản hồi thị giác và/hoặc thực hiện tác vụ[1].

Hình 3. Các vùng não chính yếu liên quan đến quá trình tự điều hoà. ACC (vàng), dorsolateral PFC extending to PMC (xanh lá đậm), ventrolateral PFC (xanh lá nhạt), anterior insula (đỏ), phần dưới và trên thuỳ đỉnh mở rộng đến vùng kết nối thái dương đỉnh (tím), và vỏ não chẩm bên mở rộng đến vòng kết nối thái dương-chẩm (xanh dương)
-----
THÁI CỰC
Cơ chế tác động của Thái cực lên cấu trúc, chức năng thần kinh
Bằng cách sử dụng hình ảnh công hưởng từ chức năng (fMRI) đã chứng minh có sự thay đổi về tính đồng nhất chức năng (functional homogeneity) của một số vùng não sau khi can thiệp Thái cực. Các nghiên cứu đã cho thấy sự tăng tính đồng nhất chức năng của hồi trước trung tâm, đồng thời sự giảm tính đồng nhất chức năng của vỏ não trước đai (ACC) và vỏ não trán trên (superior frontal cortex) trên những người tập Thái cực dài hạn. Đáng chú ý, sự thay đổi trong tính đồng nhất chức năng này của hồi sau trung tâm và ACC liên quan với số giờ luyện tập Thái cực.
Các nghiên cứu khác cũng cho thấy tính đồng nhất vùng của sự dao động tự nhiên các tín hiệu phụ thuộc nồng độ oxygen máu (HGBOLD) trong các vùng não hồi trên thái dương (tăng 16%), hồi thái dương giữa (giảm 7% bên trái và 10% bên phải), thuỳ sau của tiểu não (tăng 10%) sau các can thiệp tâm – sinh lý. Ngoải ra, các can thiệp tâm – sinh lý cũng cho thấy làm tăng biên độ trong tình trạng nghỉ của dao động tần số thấp (ALFF) ở hồi trán giữa (tăng 13%), hồi trán trên (tăng 21%) và thuỳ tiểu não trước (tăng 13%). Các dữ kiện trên đề nghị rằng tập Thái cực có thể liên quan đến sự tăng hoạt động thần kinh lúc nghỉ trong các vùng não trên và làm cải thiện chức năng nhận thức và tình trạng sức khoẻ. Chức năng kết nối giữa vỏ não trung gian trước trán và vỏ não cạnh hải mã của thuỳ thái dương giữa được chứng minh là cải thiện từ -0.036 đến 0.201 trên người khoẻ mạnh sau tập Thái cực. Một nghiên cứu khác cho thấy tập Thái cực trong 12 tuần làm tăng chức năng liên kết ở tình trạng nghỉ của hồi hải mã hai bên và vỏ não trước trán giữa. Các quan sát trên cho thấy rằng tập Thái cực liên quan với sự cải thiện chức năng nhận thức[5].
Cơ chế tiềm năng của Thái cực
Sự thay đổi của hình thái não, tính liên kết, tính đồng nhất chức năng, sự hoạt hoá các vùng não và hoạt hoát mạng lưới macro-scale do tập Thái cực có khả năng là cơ chế nền tảng của các tác động hữu ích được quan sát thấy của việc tập Thái cực.
Thăng bằng và tư thế
Các metat-analysis đã kết luận can thiệp Thái cực dẫn đến cải thiện có ý nghĩa chức năng thăng bằng và sự linh hoạt ở người lớn tuổi. Tăng độ dày vỏ não vùng hồi trước trung tâm bên phải và tăng tính đồng nhất của hồi sau trung tâm được quan sát thấy trên người tập Thái cực lâu dài. Hồi trước trung tâm phải là vùng vỏ não vận động nguyên phát chịu trách nhiệm điều phối và lập kế hoạch cho các vận động chủ ý của hệ cơ xương, trong khi hồi sau trung tâm là vùng não cảm nhận cảm giác chính cho cảm giác sờ. Sự phối hợp của thời gian và cường độ của cơ xương đáp ứng với sự lệch của tư thế và khả năng tái tổ chức đâu vào cảm giác và đáp ứng điều chỉnh tư thế sau đó là hai nhiệm vụ quan trọng của việc kiểm soát thăng bằng. Cải thiện cảm giác sờ chạm có thể cung cấp thông tin súc tích để não biết làm thế nào để phản ứng lại để điều phối cơ xương giúp kiểm soát thăng bằng tốt hơn. Tăng độ dày vỏ não vùng hồi trước trung tâm phải và tăng tính đồng nhất chức năng của hồi sau trung tâm liên quan đến tập Thái cực có khả năng là cơ chế giúp làm tăng cường sự điều phối và lập kế hoạch vận động chủ ý của não. Tiểu não là một vùng não khác có liên quan trong cơ chế cải thiện thăng bằng và tư thế của Thái cực. Tiểu não chịu trách nhiệm về phối hợp, sự chính xác, và sự điều hoà thời gian của chức năng vận động. Tăng hoạt động nền của thuỷ tiểu não trước và thuỳ tiểu não sau sau khi tập Thái cực dẫn đến chức năng tiểu não tốt hơn, và do đó liên quan đến việc thực hiện thăng bằng và tư thế tốt hơn ở người tập Thái cực.
Các thông số chuyển hoá
Hội chứng chuyển hoá là tình trạng dưới khoẻ mạnh bao gồm một nhóm các bất thường chuyển hoá bao gồm tăng huyết áp, béo phì trung tâm, giảm cholesterol trong lipoprotein tỷ trọng cao (HDLc), và tăng triglyceride. Người mắc hội chứng chuyển hoá dễ mắc các bệnh tim mạch, đái tháo đường, và một số ung thư. Thái cực có thể là một can thiệp có ích để ngăn ngừa hội chứng chuyển hoá vì nó có thể gây ra đáp ứng tim mạch hô hấp và hao phí năng lượng ở mức hoạt động trung bình cao, điều này liên quan với việc giảm nguy cơ hình thành hội chứng chuyển hoá. Các nghiên cứu trước đây đã chứng minh rằng tập Thái cực làm giảm huyết áp tâm thu và tâm trương, giảm triglyceride, giảm LDLc, giảm đường huyết sau ăn, đường huyết đói, và tăng HDLc. Tuy nhiên, Thái cực là các bài tập với chuyển động chậm và cường độ trung bình, nó có thể không đủ để thay đổi tốc độ chuyển hoá sâu sắc. Do đó, cần phải xem xét lại cơ chế làm thay đổi các thông số chuyển hoá sau tập Thái cực. Các nghiên cứu sau này đã chứng minh rằng vùng vỏ của thuỳ đảo vùng trước rãnh vòng (circular sulcus of insula) dày lên ở những người tập Thái cực lâu dài. Thuỳ đảo liên quan đến chức năng cảm giác bên trong cơ thể. Nó tích hợp thông tin liên quan đến trạng thái và chỉ đạo cơ thể để tạo ra đáp ứng thích hợp như lượng ăn vào, thay đổi huyết áp, chức năng tự động, để duy trì hằng định nội môi. Sự thay đổi về độ dày của vùng trước rãnh vòng thuỳ đảo có khả năng là một phần cơ chế đằng sau của Thái cực để làm cải thiện các thông số chuyển hoá. Sự dày lên của vùng trước rãnh vòng thuỳ đảo sau tập Thái cực làm cải thiện sự tái nhận thức trạng thái bên trong của cơ thể, và là cơ chế quan trọng cho cách mà Thái cực điều chỉnh thông số chuyển hoá.
Giảm đau
Thoái hoá khớp gối và đau thắt lưng có thể là hậu quả của sai tư thế kéo dài và thói quen hoạt động. Thái cực đã được chứng minh có tác dụng giảm đau trên bệnh nhân thoái hoá khớp gối và đau thắt lưng mạn tính. Ngoài việc Thái cực chỉnh lại các tư thế sai và làm mạnh cơ xương giúp làm giảm đau, hiệu quả giảm đau của Thái cực còn liên quan đến sự thay đổi hoạt động của não. ACC là vùng não đa chức năng, một trong số đó là chức năng ghi nhận đau thực thể. Ngoài ra, vỏ thuỳ đảo cũng được chứng minh có liên quan trong tiến trình cảm giác thông tin đau, và liên quan với điều chỉnh chiều đánh giá nhận thức, ảnh hưởng và phân biệt cảm giác của đau bằng cách sử dụng các thông tin nhận thức được cung cấp bởi nhiều vùng não khác. Tăng độ dày vỏ thuỳ đảo vùng trước rãnh vòng, cùng với giảm tính đồng nhất chức năng vùng ACC trái được quan sát thấy trên người tập Thái cực lâu dài. Sự thay đổi của các vùng não này có thể liên quan đến cơ chế của Thái cực trung gian trong quản lý đau. Các nghiên cứu trước đây đã đề nghị rằng sự ức chế của vùng ACC có thể giúp giảm đau mạn tính. Điều này có thể là do cải thiện sự chuyên biệt hoá chức năng của ACC sau tập Thái cực giúp quản lý đau tốt hơn và do đó dẫn đến hiệu quả giảm đau của Thái cực. Vỏ thuỳ đảo được báo cáo là có liên quan đến tiếp nhận, điều chỉnh và mạn tính hoá (chronification) của đau. Tăng độ dày vùng vỏ của thuỳ đảo được quan sát thấy ở người tập Thái cực lâu dài có lẽ củng cố cho việc cải thiện quản lý đau và giảm đau thông qua làm tốt hơn tiến trình nhận thức thông tin liên quan đến đau.
Mất ngủ
Các than phiền về giấc ngủ bao gồm khó vào giấc ngủ, thức giấc khi ngủ, dậy sớm, và mất ngủ mạn tính là những vấn đề thường gặp ở người lớn tuổi. Các rối laon5 giấc ngủ có liên quan với suy giảm chức năng nhận thức và trí nhớ, giảm sự chú ý, tăng thời gian đáp ứng, sự lo lắng, trầm cảm, nguy cơ té ngã, tăng huyết áp, và bệnh tim. Các nghiên cứu đã kết luận lợi ích của Thái cực trong việc giảm các vấn đề về giấc ngủ. Thể tích của hải mã (hippocampus) và mật độ chất xám vùng vỏ não trán ổ mắt được quan sát thấy giảm trên bệnh nhân mất ngủ mạn tính khi so sánh với người không mất ngủ. Ngược lại, thể tích của vùng mỏ ACC được thấy là tăng trên bệnh nhân mất ngủ mạn tính. Các bằng chứng chứng minh rằng Thái cực cải thiện giấc ngủ, làm giảm các than phiền về giấc ngủ có liên quan với cải thiện sự thiền định tâm trí (mindfulness meditation). Thiền định (meditation) là một phần chủ yếu của Thái cực, các vùng não trên bị thay đổi bởi thiền định có thể cung cấp sự giải đáp về cơ chế đằng sau của Thái cực lên sự cải thiện giấc ngủ. các báo cáo cho thấy thiền định làm tăng thể tích hải mã, và tăng mật độ chất xám vỏ não trán ổ mắt. Một vài nghiên cứu cũng báo cáo rằng sự thay đổi của các vùng não liên quan đến mất ngủ được quan sát thấy ở người tập Thái cực. Sự giảm tính đồng nhất của vùng ACC được quan sát thấy ở người tập Thái cực lâu dài. Một nghiên cứu gần đây chứng minh rằng hoạt động liên kết chức năng lúc nghỉ giữa vùng hải mã hai bên và vỏ trước trán tăng lên có ý nghĩa sau tập Thái cực.
Khí sắc (mood)
Thái cực là một nghệ thuậ võ thuật cổ truyền, Thái cực yêu cầu người tập phải thả lỏng cơ thể để đạt tới phản ứng nhanh và chuyển động nhanh để chiến đấu. Các tài liệu cổ đề nghị thư giãn tinh thần là bước quan trọng để dạt đến trạng thái thư giãn cơ thể. Các nghiên cứu hiện nay tổng hợp rằng thư giãn tinh thần và cải thiện lo lắng và trầm cảm có thể đạt được bằng thiền định. Do đó, thiền định, một bộ phận chủ yếu của Thái cực, được tin là đóng góp chính yếu đến tác động giảm lo âu, trầm cảm và rối loạn khí sắc trên nhiều dân số khác nhau. Thuỳ đảo, đồi thị, thể vân, ACC và hạnh nhân (amygdala) là những vùng não liên quan đến lo âu. Vùng bụng của hải mã được chứng mình là liên quan đến trí nhớ cảm xúc và lo âu do các kết nối của nó với amygdala, dưới đồi và vỏ trước trán. Một nghiên cứu trước đây đã chứng minh vai trò của thuỳ đảo, ACC và vùng trước trán giữa trong tiến trình cảm xúc. Vùng trước trán giữa đóng vai trò làm tăng sự chú ý của cảm xúc dương tính và giảm sự buồn bã, trong khi vùng ACC và trước trán giữa liên quan với tiến trính cảm xúc, đặc biệt là lo sợ và lo âu. Cả hai vùng ACC và trước trán giữa làm việc với nhau để xử lý trí nhớ sợ hãi và xung đột cảm xúc. Thiền định làm giảm trầm cảm và lo lắng thông qua điều chỉnh tính liên kết chức năng giữa vùng lưng ACC và vỏ thuỳ đảo. Hơn nữa, các nghiên cứu trước đây cho thấy tập Thái cực làm thay đổi độ dày và tính liên kết chức năng của các vùng não liên quan đến cảm xúc đã nói trên đây. Tăng độ dày vùng thuỳ đảo phải vùng trước rãnh vòng và tăng sự chuyên biệt hoá chức năng của ACC được quan sát thấy trên người tập Thái cực. Sự dày lên của vỏ thuỳ đảo vùng trên rãnh vòng có thể liên quan với tiến trình xử lý, nhận thức và điều chỉnh cảm xúc tốt hơn và do đó cải thiện rối loạn khí sắc.
---
KHÍ CÔNG
Khí công dịch từ tiếng Trung sang có nghĩa là để trau dồi hoặc nâng cao dạng vật chất cơ bản của con người (một dạng năng lượng). Nó được coi là một nhánh của liệu pháp chữa bệnh và nền y học cổ xưa nhất. Các hình thức Khí công sớm nhất tạo thành một trong những nguồn gốc của lý thuyết và thực hành Y học cổ truyền đương thời (YHCT). Nhiều phân nhánh của Khí công đã tập trung vấn đề sức khoẻ và y học và đã phát triển trong hơn 5000 năm. Khí công cho phép các cá nhân tu luyện năng lượng tự nhiên ("Khí") trong YHCT có liên quan đến chức năng sinh lý và tâm lý. Khí được coi là một nguồn tài nguyên tự nhiên trong cơ thể giúp duy trì sức khoẻ của con người và hỗ trợ chữa bệnh cũng như có ảnh hưởng cơ bản đến toàn bộ cuộc sống và thậm chí là chức năng có trật tự của vũ trụ và quy luật tự nhiên. Các bài tập Khí công bao gồm một loạt các phương pháp phối hợp bao gồm tư thế/chuyển động cơ thể, luyện tập hơi thở, và thiền, tất cả được thiết kế để tăng cường chức năng Khí (tức là dựa vào các năng lực tự nhiên để tối ưu hóa và cân bằng năng lượng bên trong cơ thể) thông qua trạng thái tập trung sâu và thư giãn tốt. Từ quan điểm của tư tưởng phương Tây và khoa học, tập luyện Khí công hoạt hóa các cơ chế sinh lý và tâm lý giúp cho cơ chế tự sử chữa và phục hồi sức khoẻ xảy ra tự nhiên[2].
Có hàng ngàn hình thức luyện tập Khí công đã phát triển ở các vùng khác nhau của Trung Quốc trong nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau và đã tạo ra bởi nhiều giáo viên và trường học cụ thể. Một số các dạng này được thiết kế cho các mục đích nâng cao sức khoẻ nói chung và một số cho các hình thức chẩn đoán YHCT. Một số đã được phát triển như là nghi thức cho thực hành tâm linh, và những hình thức khác để nâng cao kỹ năng trong võ thuật. Tổng quan các tài liệu nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực của Khí công nội công đã thu được hơn một chục hình thức Khí công đã được nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực sức khoẻ (ví dụ như Guo-lin, ChunDoSunBup, Bu Zheng, Bát đoạn cẩm, Khí công y học).
Các hình thức Khí công nội công đã được thử nghiệm trong nghiên cứu sức khoẻ, kết hợp một loạt các động tác đơn giản (lặp lại và theo quy luật tự nhiên), hoặc tư thế (đứng hoặc ngồi) và bao gồm tập trung vào trạng thái thư giãn ý thức và một loạt các kỹ thuật thở đi cùng với các động tác hoặc tư thế. Một triết lý cơ bản của tập luyện Khí công là bất kỳ hình thức nào của Khí công cũng có ảnh hưởng đến việc tạo ra sự cân bằng và hài hòa của Khí, có ảnh hưởng tích cực đến phức hợp năng lượng của con người – Kinh khí (Khí trong hệ thống kinh lạc, hệ thống có chức năng bao quát toàn diện cơ thể, liên kết các phần khác nhau của cơ thể và giúp chúng tương tác lẫn nhau) [2].
---
Cơ chế của Khí công
Giảm đau
Phản ứng đau là tiến trình sinh lý rất phức tạp của não. Một phần từ cảm giác bản thể thông thường, các tiến trình phức tạp khác như nhận thức, chú ý, cảm xúc, vân vân, cũng tham gia vào. Phản ứng đau được đánh giá trên hình ảnh công hường từ chức năng (fMRI) ở những người tập Khí công dài hạn cho thấy sự hoạt động của cac` vùng não liên quan đến phản ứng đau giảm xuống, đồng thời các vùng não liên quan với nhận thức, sự chú ý và cảm xúc cũng giảm, và chỉ có vùng SII-thuỳ đảo và một số vùng SI được hồi phục. Sự thay đổi của phản ứng đau của não khi tập Khí công được cho là do giảm tính nhạy cảm quá mức của các vùng não liên quan[6].
Chống trầm cảm
Trục hạ đồi-tuyến yên-tuyến thượng thận (HPA) có liên quan với nguyên nhân của stress và trầm cảm. Các bằng chứng cũng cho thấy, HPA không hoạt động độc lập mà chịu sự kiểm soát của hệ viền (limbic), đặc biệt là hải mã và amygdala. Trên người bình thường, stress sẽ kích phát tín hiệu trong các neuron hệ viền trong nhân cạnh não thất (PVN) của vùng dưới đồi gây tiết CRH, tiếp theo là gây tiết ACTH từ tiền yên. ACTH kích thích tổng hợp và giải phóng glucocorticoid, đặc biệt là cortisol, từ tuyến thượng thận, hormone thiết yếu cho cơ thể sẵn sàng cho phản ứng “chiến đấu hoặc bỏ chạy”. Cortisol máu, trong điều kiện sinh lý bình thường, sẽ gây ohan3 hồi âm tính lên trục HPA, nó làm ức chế tín hiệu từ hải mã. Trong trầm cảm, phản hồi âm tính bị suy yếu, có lẽ do giảm nhạy cảm của thụ thể glucocorticoid. Điều này dẫn đến hoạt hoá quá mức của trục HPA và tăng giải phóng glucocorticoid trong cơ thể. Như vậy, sự giải phóng quá mức ACTH và cortisol có liên quan đến biểu hiện trầm cảm. Tăng nồng độ glucocorticoid kéo dài do trầm cảm gây hại và làm tổn thương hải mã. Một tổng quan hệ thống gần đây cho thấy tăng glucocorticoid và teo hải mã có thể liên quan với sự biểu hiện của thụ thể 5-HT, điều này có thể là nguyên nhân gây ra các biểu hiện triệu chứng trầm cảm.
Khí công giúp tâm trí bình tĩnh và giảm các tín hiệu nhận thức hoặc cảm nhận âm tính đến não. Theo cách này, khí công làm giảm tín hiệu stress đến hệ viền và do đó giảm hoạt động của trục HPA gây ra giảm giải phóng glucocorticoid tuyến thượng thận.
Ngoài ra, một số nghiên cứu đã chứng minh rằng stress và trầm cảm làm giảm nồng độ BDNF (brain-derived Neurotropic Factor, yếu tố tăng tưởng thần kinh giải phóng bởi não) và giảm sự hình thành thần kinh, điều này gây bất thường cấu trúc ở người. Các nghiên cứu về Khí công báo cáo rằng tập luyện khí công gây giảm stress thông qua cơ chế điều hoà hướng lên BDNF và điều hoà hướng xuống cortisol thượng thận. Tổng hợp hai hiệu ứng trên gây kết quả là thúc đẩy tăng sinh ở hải mã, đây là lý do tại sao Khí công có tác dụng chống trầm cảm[4].

Hình 4. Cơ chế giảm trầm cảm của Khí công
---
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Emmert, Kirsten, et al. (2016), "Meta-analysis of real-time fMRI neurofeedback studies using individual participant data: How is brain regulation mediated?", Neuroimage. 124, pp. 806-812.
2. Jahnke, Roger, et al. (2010), "A comprehensive review of health benefits of qigong and tai chi", American Journal of Health Promotion. 24(6), pp. e1-e25.
3. Kos, Anton and Umek, Anton (2018), Biomechanical biofeedback systems and applications, Springer Berlin Heidelberg, New York, pp. 25-28.
4. Tsang, Hector W. H. and Fung, Kelvin M. T. (2008), "A review on neurobiological and psychological mechanisms underlying the anti-depressive effect of qigong exercise", Journal of health psychology. 13(7), pp. 857-863.
5. Yu, Angus P., et al. (2018), "Revealing the neural mechanisms underlying the beneficial effects of Tai Chi: a neuroimaging perspective", The American journal of Chinese medicine. 46(02), pp. 231-259.
6. Yu, Wei-Lin, et al. (2007), "fMRI study of pain reaction in the brain under state of" Qigong"", The American journal of Chinese medicine. 35(06), pp. 937-945.