4 phút đọc

4/7/2023

[SẢN] Case lâm sàng: Thay đổi sinh lý trong thai kỳ

Mình có sưu tầm được vài bài kiểu này khá hay, bài lý thuyết nhưng có case minh họa khá hay. Thấy kiểu này học bài vô hơn nè. Share cho anh em cùng đọc.

Một phụ nữ 24 tuổi, mang thai lần 2, sinh 1 lần, đến phòng khám yêu cầu khởi phát chuyển dạ lúc thai được 37 tuần. Bệnh nhân nói rằng những tuần cuối của thai kỳ cảm thấy "rất khó chịu" do kiệt sức và khó thở khi đi lại. Cô ấy bị phù cả hai chân và không thể đi vừa đôi giày của mình. Bệnh nhân khó ngủ về đêm do bị đau cả hai bắp chân, thuyên giảm khi xoa bóp, kéo giãn và do thai thường cử động về đêm. Khám toàn thân không có cơn co tử cung, không chảy máu, không ra nước âm đạo. Nhiệt độ là 36,8 độ C (98,2 độ F), huyết áp 110/70 mmHg, mạch 110 lần/phút và nhịp thở là 18 chu kỳ/phút. Phân tích nước tiểu thấy protein dạng vết. Khám thực thể thấy phù mềm, ấn lõm, đối xứng hai bắp chân, cổ chân, bàn chân. Nghe tim thấy tiếng thổi tâm thu tống máu cường độ 2/6. Nghe phổi rõ, không có rales. Bước tiếp theo nào sau đây là thích hợp nhất để quản lý bệnh nhân này?

A. Lấy mẫu nước tiểu 24h để định lượng protein niệu

B. Chụp X quang ngực

C. Chụp CT động mạch phổi

D. Siêu âm Doppler chi dưới

E. Siêu âm tim

F. Trấn an bệnh nhân và tái khám định kỳ

kkk.png

Mang thai gây ra những thay đổi huyết động của mẹ bao gồm tăng cung lượng tim và thể tích huyết tương cũng như giảm sức cản mạch hệ thống và huyết áp. Cung lượng tim tăng là kết quả của sự gia tăng thể tích nhát bóp ở giai đoạn đầu thai kỳ và nhịp tim nhanh hơn ở giai đoạn cuối thai kỳ và thường kèm theo tiếng thổi tâm thu tống máu. Sự gia tăng thể tích huyết tương có thể gây phù ngoại vi. 

Khó thở cũng thường xảy ra do sự thích nghi của hệ hô hấp với thai kỳ. Progesterone làm tăng thông khí phút thông qua tăng thể tích khí lưu thông, nhưng tần số hô hấp không thay đổi. Tử cung to ra đẩy cơ hoành lên cao, dẫn đến tăng thể tích khí lưu thông , nhưng tần số hô hấp không thay đổi. Tử cung to ra đẩy cơ hoành lên cao dẫn đến giảm dung tích cặn chức năng.

Đau chân về đêm cũng phổ biến do co rút cơ vì tích tụ axit lactic và pyruvic. Trấn an và chăm sóc tiền sản định kỳ được chỉ định cho bệnh nhân này, người đang có những biểu hiện bình thường của sự thích nghi sinh lý với thai kỳ.

(Lựa chọn A) Lấy mẫu nước tiểu 24h để định lượng protein niệu là một phần của đánh giá tiền sản giật, các đặc điểm chính của chúng bao gồm tăng huyết áp, phù và protein niệu bệnh lý. Bệnh nhân với huyết áp bình thường này có protein dạng vết khi phân tích nước tiểu, một dấu hiệu bình thường trong thai kỳ do tăng bài xuất protein qua nước tiểu. Kết quả là do tăng mức lọc cầu thận và tính thấm của màng đáy cầu thận

(Lựa chọn B) Chụp X-quang phổi sẽ hữu ích trong việc chẩn đoán phù phổi, thường có biểu hiện khó thở, ho và rales khi nghe phổi, không có biểu hiện nào có ở bệnh nhân này.

(Lựa chọn C) Chụp CT động mạch phổi là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán thuyên tắc phổi (PE). Mặc dù mang thai làm tăng nguy cơ PE, nhưng bệnh nhân này không có thở nhanh, đau ngực kiểu màng phổi, ho và đau bắp chân khi sờ nắn khiến việc đánh giá PE là không cần thiết.

(Lựa chọn D) Siêu âm Doppler được sử dụng để đánh giá huyết khối tĩnh mạch sâu, thường có biểu hiện đau, sưng và đỏ ở bắp chân hoặc đùi một bên. Bệnh nhân này đau bắp chân cả hai bên và thuyên giảm khi xoa bóp.

(Lựa chọn E) Siêu âm tim sẽ được chỉ định để đánh giá bệnh cơ tim chu sinh, có thể gây phù ngoại vi và khó thở. Tuy nhiên, khi không có ho, ho ra máu và tiếng thổi toàn tâm thu trong hở van hai lá khiến cho việc xét nghiệm thêm là không cần thiết

Kết luận: Sự thích nghi của người mẹ với thai kỳ bao gồm tăng cung lượng tim, thể tích huyết tương và thể tích khí lưu thông. Tiếng thổi tâm thu tống máu, phù ngoại vi, khó thở rất thường gặp nhưng là các triệu chứng lành tính, và là kết quả của những thay đổi này

Bình luận