
VIÊM TỤY CẤP là tình trạng viêm cấp tính của tuyến tụy (và đôi khi là các mô lân cận). Các tác nhân gây khởi phát phổ biến nhất là sỏi mật và uống rượu. Mức độ nặng của VIÊM TỤY CẤP được phân loại là nhẹ, trung bình nặng hoặc nặng dựa trên sự hiện diện của các biến chứng tại chỗ và suy tạng tạm thời hoặc kéo dài.
Biến chứng của viêm tuỵ cấp
Biến chứng của VIÊM TỤY CẤP có thể được phân loại như sau
- Tại chỗ: Tích tụ dịch ở tụy và quanh tụy, huyết khối tĩnh mạch lách, hình thành nang giả tụy và rối loạn chức năng đường ra dạ dày.
- Toàn thân: Sốc, suy tạng
Tích tụ dịch tụy giàu enzyme ở tụy và ở quanh tụy có thể xảy ra ở giai đoạn đầu của quá trình diễn biến bệnh. Các chỗ ứ dịch chỉ chứa dịch hoặc chỉ dịch và chất hoại tử. Hầu hết các chỗ ứ dịch này tự hết, nhưng nếu không tự hết sau khoảng 4 tuần, các chỗ này sẽ hình thành bao xơ có thể nhìn thấy trên hình ảnh cắt ngang. Các chỗ ứ dịch có bao như vậy được gọi là các giả nang tụy hoặc hoại tử hóa thành theo các phần bên trong; một giả nang chỉ chứa dịch và hoại tử hóa thành có chứa cả dịch và chất hoại tử. Khoảng 1/3 giả nang tự khỏi. Khoảng 1/3 số bệnh nhân bị hoại tử tụy, dịch có thể bị nhiễm vi khuẩn đường ruột gây ra tỷ lệ bị bệnh và tử vong rất cao.
Biến chứng hệ thống bao gồm suy một hoặc nhiều tạng (ví dụ, suy tim mạch và/hoặc suy hô hấp, tổn thương thận cấp) và sốc. Nguy cơ tăng lên ở những bệnh nhân mắc bệnh nền kèm theo và/hoặc hội chứng phản ứng viêm hệ thống dai dẳng (SIRS).
SIRS, trong bối cảnh lâm sàng thích hợp, được định nghĩa là sự hiện diện của hai hoặc nhiều yếu tố sau:
- Nhiệt độ > 38,3° C hoặc < 36,0° C
- Nhịp tim > 90/phút
- Nhịp thở > 20/phút hoặc PACO2 < 32 mmHg
- Số lượng bạch cầu > 12,000/mcL (12 × 109/L), < 4,000/mcL (4 × 109/L) hoặc với bạch cầu đũa > 10 %
Suy tạng được xác định bằng cách sử dụng hệ thống chấm điểm Marshall, dựa trên các chỉ số xét nghiệm và các chỉ số sinh hiệu của suy hô hấp, suy thận và suy tim mạch.
Tử vong ở giai đoạn đầu (trong vòng 1 tuần) của VIÊM TỤY CẤP thường do suy đa tạng, trong khi tử vong ở giai đoạn muộn (> 1 tuần) thường do kết hợp nhiều yếu tố, bao gồm suy đa tạng, nhiễm trùng ở VIÊM TỤY hoại tử và các biến chứng do can thiệp ngoại khoa và can thiệp nội soi.
Các triệu chứng và dấu hiệu của VIÊM TỤY CẤP
Một cơn VIÊM TỤY CẤP tính gây đau bụng trên như dao đâm âm ỉ liên tục, thường đủ dữ dội để cần phải tiêm opioid. Đau lan đến phần lưng ở khoảng 50% số bệnh nhân. Đau thường xuất hiện đột ngột ở VIÊM TỤY do sỏi mật; trong VIÊM TỤY do rượu, đau xuất hiện trong vài ngày. Đau thường kéo dài trong vài ngày. Ngồi lên và nghiêng về phía trước có thể làm giảm đau, nhưng ho, cử động mạnh mẽ và hít thở sâu có thể làm đau tăng. Buồn nôn và ói mửa là phổ biến.
Bệnh nhân có xu hướng ốm nặng cấp tính và vã mồ hôi. Mạch thường tăng (ví dụ 100 đến 140 nhịp/phút). Thở nhanh nông. Huyết áp có thể cao hoặc thấp thoáng qua, kèm theo hạ huyết áp tư thế đáng kể. Nhiệt độ có thể là bình thường hoặc thậm chí lúc đầu có thể dưới bình thường nhưng có thể tăng lên 37,7 đến 38,3° C trong vòng vài giờ. Cảm quan có thể suy giảm đến mức ngủ gà. Củng mạc mắt vàng khi xuất hiện do tắc nghẽn ống mật do sỏi hoặc viêm và sưng đầu tụy. Khả năng vận động của cơ hoành bị hạn chế ở phổi và có bằng chứng của xẹp phổi.
Bệnh nhân có thể bị tắc ruột cơ năng dẫn đến giảm tiếng nhu động ruột và bụng chướng. Ấn đau rõ ở bụng, thường gặp nhất ở bụng trên. Hiếm khi, cảm ứng phúc mạc nghiêm trọng dẫn đến bụng cứng và như gỗ. Tắc nghẽn ống tụy có thể gây ra cổ chướng (cổ chướng do tụy). Dấu hiệu Grey Turner (các vết bầm máu ở mạng sườn) và dấu hiệu Cullen (các vết bầm máu ở vùng rốn) cho thấy có tình trạng thoát mạch của dịch xuất huyết, xảy ra ở < 1% số trường hợp và cảnh báo tiên lượng xấu.
Nên nghi ngờ nhiễm trùng ở tụy hoặc ở các ổ tụ dịch liền kề nếu bệnh nhân có biểu hiện nhiễm độc toàn thân kèm theo sốt và tăng bạch cầu hoặc nếu tình trạng bệnh nhân xấu sau thời gian ổn định ban đầu. Bệnh nhân bị bệnh nặng có thể bị suy đa tạng (tim mạch, thận và hô hấp).