6 phút đọc

3/26/2023

[TRIỆU CHỨNG & DẤU HIỆU + CHẨN ĐOÁN] XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH

XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH được đặc trưng bởi các mảng bám nội mạc (mảng xơ vữa) xâm lấn vào lòng các động mạch cỡ trung bình và lớn.

Xơ cứng động mạch hay xơ vữa động mạch? | Vinmec

Các triệu chứng và dấu hiệu của XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH

XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH thường không triệu chứng trong hàng chục năm. Các triệu chứng xuất hiện khi tổn thương làm cản trở dòng máu. Triệu chứng thiếu máu thoáng qua (ví dụ, đau thắt ngực ổn định khi gắng sức, cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua, đau cách hồi chi dưới) có thể xuất hiện khi mảng xơ vữa ổn định phát triển và gây hẹp > 70% lòng mạch. Co thắt mạch máu có thể khiến một tổn thương không gây hẹp đáng kể trở thành hẹp nặng hoặc tắc hoàn toàn.

Các triệu chứng đau thắt ngực không ổn định hoặc nhồi máu cơ tim, đột quỵ do thiếu máu não cục bộ hoặc đau khi nghỉ ngơi ở các chi có thể phát sinh khi các mảng xơ vữa không ổn định vỡ ra và làm tắc cấp tính một động mạch chính, với tình trạng chồng chất của huyết khối hoặc tắc mạch. XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH có thể gây đột tử mà không có các cơn đau thắt ngực ổn định/không ổn định trước đó.

Tác động của xơ vữa lên thành động mạch có thể gây tách hoặc phình động mạch, gây ra triệu chứng đau, khối đập theo nhịp, mắt mạch hoặc đột tử.

Chẩn đoán XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH

Tiếp cận chẩn đoán XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH phụ thuộc vào có hay không triệu chứng lâm sàng.

Bệnh nhân có triệu chứng thiếu máu được đánh giá mức độ và vị trí mạch bị hẹp bởi các thăm dò xâm nhập lẫn không xâm nhập, tùy thuộc vào cơ quan bị ảnh hưởng (xem các mục phần khác trong CẨM NANG). Các bện nhân này cần được đánh giá nguy cơ XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH

Bệnh sử và khám lâm sàng

Tình trạng lipid máu khi đói

Mức độ glucose máu và hemoglobin glycosy hóa (HbA1c)

Bệnh nhân có bệnh lý xơ vữa tại một vị trí (ví dụ động mạch ngoại vi) cần được đánh giá thêm các vị trí khác (ví dụ mạch vành và mạch cảnh).

Các kỹ thuật hình ảnh không xâm lấn có thể đánh giá hình thái và đặc điểm của mảng bám bao gồm

Siêu âm mạch máu ba chiều, có thể được sử dụng để đánh giá mảng bám trong động mạch cảnh và các động mạch khác

Chụp cắt lớp vi tính (CT) động mạch, được sử dụng trên lâm sàng để xác định các tổn thương đáng kể trong động mạch vành

Chụp mạch cộng hưởng từ (MR), đôi khi được sử dụng để hình ảnh các động mạch lớn (ví dụ: động mạch chủ)

Các xét nghiệm xâm lấn bằng ống thông cũng được sử dụng. Bao gồm:

Siêu âm nội mạch, sử dụng đầu dò siêu âm trên đầu catheter để tạo ra hình ảnh của lòng và thành động mạch

Nội soi mạch, sử dụng ống thông sợi quang đặc biệt có thể quan sát trực tiếp bề mặt động mạch

Đo nhiệt độ mảng bám, được sử dụng để phát hiện nhiệt độ tăng trong mảng xơ vữa

Chụp cắt lớp quang học, sử dụng ánh sáng laser hồng ngoại

Elastography, được sử dụng để xác định các mảng mềm, giàu lipid

Ghi hình miễn dịch phóng xạ là một thăm dò không xâm nhật sử dụng các chất đánh dấu phóng xạ để xác định các mảng xơ vữa dễ nứt vỡ. Chụp cắt lớp vi tính phát xạ positron (PET) mạch máu llà một cách tiếp cận khác để đánh giá các mảng xơ vữa nguy cơ cao.

Không phải tất cả các mảng xơ vữa đều có nguy cơ giống nhau, nhiều công nghệ chẩn đoán hình ảnh (ví dụ: chụp cắt lớp phát xạ positron) đang được nghiên cứu để xác định các mảng xơ vữa dễ nứt vỡ; tuy nhiên, những kỹ thuật này vẫn chưa được ứng dụng trên lâm sàng.

Ngoài dữ liệu lipid lúc đói và đo nồng độ glucose huyết tương và hemoglobin A1C, một số bác sĩ lâm sàng đo nồng độ các dấu ấn huyết thanh. Nồng độ protein phản ứng C nhạy cảm cao ≥ 3,1 mg/dL (≥ 29,5 nmol/L) có khả năng dự báo tốt các biến cố tim mạch.

Bệnh nhân không có triệu chứng (sàng lọc)

Ở bệnh nhân có nguy cơ XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH nhưng không có triệu chứng thiếu máu thì giá trị của các thăm dò cận lâm sàng ngoài xét nghiệm lipid máu vẫn chưa rõ ràng. Mặc dù các thăm dò chẩn đoán hình ảnh nhằm phát hiện mảng xơ vữa (như đo độ dày lớp áo trong và áo giữa động mạch cảnh qua siêu âm) đang được nghiên cứu, chúng chưa thực sử cải thiện khả năng dự đoán biến cố thiếu máu so với các biện pháp công cụ dự đoán truyền thống dựa theo yếu tố nguy cơ, do vậy vẫn chưa được khuyến cáo sử dụng. Một ngoại lệ là chụp CT đánh giá vôi hóa mạch vành (tức là để đạt được điểm canxi), là thăm dò có nhiều bằng chứng cho thấy có thể cải thiện phân tầng nguy cơ và hữu ích trong quyết định sử dụng statin ở một số bệnh nhân nhất định (ví dụ bệnh nhân có nguy cơ mức độ trung bình, tiền sử gia đình có bệnh tim mạch sớm).

Đa số khuyến cáo đề nghị làm xét nghiệm lipid máu để sàng lọc nguy cơ ở các bệnh nhân có một trong các đặc điểm sao:

Nam giới ≥ 40 tuổi

Nữ giới ≥ 40 tuổi và phụ nữ sau mãn kinh

Gia đình có tiền sử tăng cholesterol máu gia đình hoặc bệnh tim mạch sớm (ví dụ: tuổi khởi phát < 55 ở người nam, hoặc < 65 tuổi ở nữ có quan hệ huyết thống trực hệ)

Đái tháo đường típ 2

Tăng huyết áp

Hội chứng chuyển hóa

Bệnh thận mạn tính (mức lọc cầu thận ước tính [eGFR] ≤ 60 mL/phút/1,73 m2 hoặc tỷ lệ albumin-creatinine [ACR] ≥ 3 mg/mmol)

Tiền sử hút thuốc lá ở hiện tại

Có tình trạng viêm mạn tính

Nhiễm HIV

Tiền sử rối loạn tăng huyết áp của thai kỳ (tiền sản giật hoặc sản giật)

Hiện nay, Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ (AHA) khuyến cáo sử dụng các phương trình đánh giá nguy cơ tổng hợp (xem phần Công cụ tính rủi ro AHA có thể tải xuống) để ước lượng nguy cơ suốt đời và 10 năm về bệnh tim mạch do xơ vữa. Công cụ này đã thay thế các công cụ tính điểm nguy cơ trước kia (ví dụ, điểm Framingham). Bảng điểm nguy cơ mới dựa trên giới tính, tuổi, chủng tộc, cholesterol toàn phần và HDL, huyết áp tâm thu (và có đang điều trị tăng huyết áp hay không), đái tháo đường, tình trạng hút thuốc (1). Các khuyến cáo của Hiệp hội Tim mạch Châu Âu (ESC) và Hiệp hội XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH Châu Âu (EAS) năm 2016 gợi ý sử dụng thang điểm SCORE để ước tính nguy cơ biến cố nghiêm trọng do xơ vữa đầu tiên trong 10 năm, dựa trên tuổi, giới, tình trạng hút thuốc, huyết áp tâm thu và cholesterol toàn phần (2). Đối với bệnh nhân có nguy cơ trung bình, đo lipoprotein (a) được khuyến cáo thực hiện để cai thiện phân loại (3, 4).

CÔNG CỤ TÍNH TOÁN LÂM SÀNG:

Đánh giá nguy cơ tim mạch (10 năm, phương trình nhóm thuần tập được sửa đổi năm 2018) icon

Albumin niệu trong nước tiểu (>30 mg/24 giờ) là chỉ điểm cho rối loạn về thận tiến triển, cũng như yếu tố tiên lượng mạnh của bệnh lý tử vong do tim mạch cũng như không do tim mạch. Tuy nhiên mối quan hệ trực tiếp giữa albumin niệu và XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH vẫn cưa được xác định.

 

#Tim mạch#Tài liệu y khoa
Bình luận