5 phút đọc

3/26/2023

[CHẨN ĐOÁN + TIÊN LƯỢNG] HẸP VAN ĐỘNG MẠCH CHỦ

Hẹp van động mạch chủ (HC), cản trở lưu lượng máu từ tâm thất trái tới động mạch chủ lên trong suốt thì tâm thu. 

Hẹp van động mạch chủ không triệu chứng có nguy hiểm không? | Vinmec

Chẩn đoán HẸP VAN ĐỘNG MẠCH CHỦ

* Siêu âm tim

Chẩn đoán hoặc hẹp động mạch chủ dựa trên lâm sàng và chẩn đoán xác định bằng siêu âm tim. Siêu âm tim hai chiều được sử dụng để xác định HẸP VAN ĐỘNG MẠCH CHỦ và nguyên nhân, để đánh giá phì đại thất trái và mức độ rối loạn chức năng tâm thu, và để phát hiện các bất thường van cùng tồn tại (hở chủ, bất thường van hai lá) và các biến chứng (ví dụ, viêm nội tâm mạc). Siêu âm Doppler được sử dụng để đánh giá mức độ hẹp bằng cách đo vận tốc dòng, gradient áp lực qua van thì tâm thu, và vùng van động mạch chủ.

Mức độ nghiêm trọng của HẸP VAN ĐỘNG MẠCH CHỦ được đặc trưng bởi các đặc điểm sau trên siêu âm tim:

Nhẹ: Vận tốc dòng đỉnh 2 đến 2,9 m/giây hoặc gradient trung bình < 20 mm Hg

Trung bình: Vận tốc dòng đỉnh 3 đến 4 m/giây hoặc gradient trung bình 20 đến 40 mm Hg

Nặng: Vận tốc dòng đỉnh > 4 m/giây hoặc gradient trung bình > 40 mm Hg

Rất nặng: Vận tốc dòng đỉnh > 5 m/giây hoặc gradient trung bình > 60 mm Hg

Đánh giá lâm sàng và đánh giá quan trọng dữ liệu được sử dụng để giải quyết bất kỳ sự bất đồng nào giữa các thông số này (ví dụ, diện tích van trung bình nhưng gradient trung bình nghiêm trọng). Đo diện tích van động mạch chủ kém chính xác nhất khi giảm thể tích LV hoặc chức năng tâm thu, hoặc nếu có tăng huyết áp toàn thân.

Chênh áp có thể bị đánh giá quá cao khi xuất hiện hở van động mạch chủ. Gradient có thể ở dưới mức biểu hiện nghiêm trọng khi cung lượng tim thấp, ví dụ như ở những bệnh nhân tăng huyết áp toàn thân hoặc có rối loạn chức năng tâm thu thất trái (hẹp chủ chênh áp thấp với EF giảm) hoặc phì đại thất trái (hẹp chủ chênh áp thấp với EF bình thường – xem bảng Các loại HẸP VAN ĐỘNG MẠCH CHỦ nặng). Đôi khi các rối loạn chức năng tâm thu thất trái gây ra áp lực tâm thất thấp không đủ để mở các cánh van không hẹp, làm xuất hiện hình ảnh siêu âm tim ở vùng thấp của van khi không có hẹp (giả hẹp). Có thể hỗ trợ phân biệt giả hẹp với AS gradient thấp bằng cách tính tỷ số giữa đường ra và vận tốc ở động mạch chủ (chỉ số vận tốc Doppler, [DVI]). Giá trị DVI < 0,25 cho thấy hẹp nặng thực sự. Đánh giá mức độ vôi hóa van bằng CT có thể giúp xác định mức độ nặng của AS. AS nặng có khả năng xảy ra khi chỉ số canxi van tim > 2000 (nam) và > 1300 (nữ). Rất có khả năng khi điểm canxi là > 3000 (nam) và > 1600 (nữ). Siêu âm tim gắng sức bằng dobutamine liều thấp giúp phân biệt AS gradient thấp với giả hẹp.

Trước khi can thiệp, cần thiết phải thông tim để xác định xem bệnh động mạch vành có phải là nguyên nhân gây ra chứng đau thắt ngực và đôi khi để giải quyết sự không nhất quán giữa các phát hiện lâm sàng và siêu âm tim.

* Xét nghiệm điện tim và chụp X-quang ngực.

Điện tim thường cho thấy sự thay đổi của phì đại thất trái có hoặc không có ST chênh và sóng T âm.

Xét nghiệm X-quang ngực có thể bao gồm sự canxi hóa các lá van động mạch chủ (nhìn ở mặt bên hoặc qua huỳnh quang) và bằng chứng của suy tim. Kích cỡ của tim có thể bình thường hoặc chỉ tăng nhẹ.

Ở những bệnh nhân không có triệu chứng với hẹp động mạch chủ nghiêm trọng, được theo dõi chặt chẽ, nghiệm pháp gắng sức ECG được khuyến cáo trong để gợi lên các triệu chứng đau thắt ngực, khó thở, hoặc hạ huyết áp - chỉ định can thiệp khi có bất kỳ triệu chứng nào trong số những triệu chứng này. Thất bại trong việc gia tăng giá trị huyết áp về mức bình thường và gây tiến triển ST chênh xuống ít có giá trị dự đoán tiên lượng nghiêm trọng. Chống chỉ định nghiệm pháp gắng sức ở bệnh nhân có triệu chứng.

Tiên lượng về HẸP VAN ĐỘNG MẠCH CHỦ

HẸP VAN ĐỘNG MẠCH CHỦ tiến triển nhanh hơn khi mức độ hẹp tăng, nhưng mức độ thay đổi đa dạng đòi hỏi phải có giám sát thường xuyên, đặc biệt ở những bệnh nhân cao tuổi tĩnh tại. Ở những bệnh nhân này, dòng chảy có thể giảm đáng kể mà không gây ra triệu chứng.

Bệnh nhân không có triệu chứng hẹp chủ nặng và chức năng tâm thu bình thường nên được đánh giá lại mỗi 6 tháng vì 3-6% trong số các bệnh nhân này sẽ tiến triển thành triệu chứng hoặc suy giảm chức năng tâm thu thất trái mỗi năm. Phẫu thuật đưa ra nguy cơ lớn hơn lợi ích sống còn của bệnh nhân không triệu chứng, nhưng khi có triệu chứng, thời gian sống trung bình sẽ giảm từ 2 đến 3 năm, và thay thế van được chỉ định để làm giảm các triệu chứng và cải thiện sự sống còn. Nguy cơ phẫu thuật tăng lên đối với những bệnh nhân cần bắc cầu động mạch vành đồng thời (CABG), và cho những người có chức năng tâm thu thất trái giảm.

Ở những bệnh nhân hẹp chủ nặng, khoảng 50% số ca tử vong xảy ra đột ngột, và những bệnh nhân này nên được khuyến cáo hạn chế gắng sức.

 

#Tim mạch#Tài liệu y khoa
Bình luận