Các triệu chứng cơ năng và thực thể của THOÁT VỊ BẸN khá dễ nhận diện trên lâm sàng.
Cơ năng
Hỏi lý do vào viện: Thường có 2 lý do chính khiến bệnh nhân vào viện, đau tức ở vùng bẹn bìu hoặc khối phồng ở vùng bẹn bìu.
Hỏi hoàn cảnh xuất hiện của triệu chứng vừa hỏi được: Từ sau sinh, mới xuất hiện trong thời gian gần đây, sau khi khuân vác nặng hay chạy nhảy nhiều.
Triệu chứng khác kèm theo như táo bón, tiểu khó, đại tiện ra máu (trĩ).
Thực thể
Nhìn:
Triệu chứng tìm thấy chủ yếu là khối phồng với các tính chất của nó như nằm trên nếp lằn bẹn, chạy dọc theo chiều của ống bẹn từ trước ra sau và từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong. Khối phồng thay đổi kích thước theo tư thế và khi làm các nghiệm pháp tăng áp lực ổ bụng như ho, rặn....
Nếu là THOÁT VỊ BẸN-bìu thì thấy bìu lớn bất thường.
Sờ:
Là động tác quan trọng nhất trong khám THOÁT VỊ BẸN.
Khối phồng vùng bẹn: Cổ nằm trên nếp lằn bẹn, không đau nếu chưa có biến chứng, tăng kích thước khi tăng áp lực ổ bụng. Nếu tạng THOÁT VỊ là quai ruột thi sờ có cảm giác lọc xọc, sờ cảm giác chắc nếu tạng THOÁT VỊ là mạc nối.
Lỗ bẹn nông rộng.
Một số nghiệm pháp thường dùng trong chẩn đoán THOÁT VỊ BẸN:
“Chạm ngón”: Dùng ngón tay đội da bìu đi ngược lên vào lỗ bẹn nông, ước lượng khẩu kính của nó. Tiếp đó quay áp mặt múp của ngón vào thành sau ống bẹn rối bảo bệnh nhân ho mạnh. Đón nhận cảm giác chạm túi THOÁT VỊ vào ngón tay, nếu ở đầu ngón là THOÁT VỊ BẸN thể gián tiếp, nếu ở mặt múp ngón là THOÁT VỊ BẸN trực tiếp.
“Thủ thuật Zieman”: Dùng 3 ngón tay để xác định loại THOÁT VỊ. Khám bên nào thì dùng bàn tay bên đó: Ngón trỏ ở nếp bụng-mu thấp, ngón giữa theo nếp bẹn còn ngón nhẫn ở hõm bầu dục ở đáy tam giác Scarpa. Rồi bảo bệnh nhân ho mạnh: Nếu cảm giác chạm ở ngón trỏ là THOÁT VỊ BẸN trực tiếp, nếu ở ngón giữa là THOÁT VỊ BẸN gián tiếp còn nếu ở ngón nhẫn là THOÁT VỊ đùi.
Ngoài ra còn có một số nghiệm pháp khác như nghiệm pháp lăn thừng tinh của Ladd (rolling test), dấu hiệu cọ xát của lụa...
Soi đèn:
Soi bằng đèn bấm, trong phòng tối. Soi từng bên bìu và so sánh với bên đối diện. Trong trường hợp tràn dịch màng tinh hoàn, tràn dịch ống Nuck hay nang nước thừng tinh, nang ống Nuck thì có hiện tượng thấu sáng. Trong trường hợp THOÁT VỊ BẸN thì giảm sáng so với bên đối diện.
Siêu âm:
Nhiều nghiên cứu cho thấy vai trò của siêu âm trong chẩn đoán THOÁT VỊ. Siêu âm cho thấy hình ảnh của các quai ruột hay mạc nối bên trong khối phồng.
Đôi khi siêu âm còn cho phép đo được đường kính lỗ bẹn sâu.
Nội soi ổ bụng:
Cho phép thấy được lỗ bẹn sâu rộng, tạng THOÁT VỊ chui qua lỗ bẹn sâu.