CƠ TIM GIÃN nở là bệnh lý cơ tim phổ biến nhất, chủ yếu xảy ra ở người lớn từ 20 – 60 tuổi.

Tiên lượng về bệnh CƠ TIM GIÃN
Tiên lượng của bệnh CƠ TIM GIÃN nói chung là xấu, mặc dù tiên lượng đã được cải thiện với các phác đồ xử trí hiện tại (ví dụ, sử dụng thuốc chẹn beta, thuốc ức chế men chuyển [ACE], thuốc đối kháng thụ thể mineralocorticoid, máy khử rung tim cấy ghép hoặc liệu pháp tái đồng bộ tim). Khoảng 20% bệnh nhân chết trong năm đầu tiên và sau đó khoảng 10%/năm sau đó; khoảng 40 đến 50% số ca đột tử do rối loạn nhịp ác tính hoặc biến cố tắc mạch. Tiên lượng tốt ở những bệnh nhân có thành thất còn dày bảo tồn và thường tồi hơn ở những bệnh nhân có thành thất trái mỏng và giãn. Bệnh nhân bị bệnh CƠ TIM GIÃN được điều trị tốt có thể ổn định trong nhiều năm.
Điều trị bệnh CƠ TIM GIÃN
- Điều trị nguyên nhân (nếu có)
- Liệu pháp chuẩn cho điều trị suy ti với chức năng thất trái giảm
- Sử dụng thuốc chống đông khi có rung nhĩ hoặc khi có các nguyên nhân khác như huyết khối trong buồng tim.
- Một số bệnh nhân cần được cấy máy khử rung ICD để dự phòng đột tử do rối loạn nhịp hoặc mấy đồng bộ cơ tim CRT, thiết bị hỗ trợ tâm thất trái, hoặc ghép tim.
- Sử dụng liệu pháp ức chế miễn dịch ở bệnh nhân viêm cơ tim tế bào khổng lồ, viêm cơ tim eosin, hay bệnh sarcoid.
Điều trị các nguyên nhân có thể điều trị được (ví dụ: nhiễm toxoplasmosis, bệnh Chagas cấp, bệnh nhiễm sắt, nhiễm độc giáp, bệnh beriberi). Bệnh nhân nhiễm HIV nên được tối ưu hóa liệu pháp kháng retrovirus (ART). Điều trị bằng ức chế miễn dịch nên được giới hạn ở những bệnh nhân bị viêm cơ tim tế bào khổng lồ đã được chứng minh bằng sinh thiết, viêm cơ tim tăng bạch cầu ái toan, hoặc bệnh sarcoid.
Nếu không, điều trị cũng giống như đối với suy tim với phân suất tống máu giảm: Thuốc chế ACE, thuốc chẹn beta, thuốc chẹn thụ thể aldosterone, thuốc chẹn thụ thể angiotensin II, ARNI (thuốc chẹn thụ thể angiotensin II và chất ức chế neprilysin), thuốc ức chế natri glucose cotransporter 2 (SGLT), hydralazine/nitrat, thuốc lợi tiểu và digoxin. Các nghiên cứu cho thấy những bệnh nhân bị bệnh CƠ TIM GIÃN tự phát đáp ứng tốt với các phương pháp điều trị HF tiêu chuẩn và điều trị đáp ứng hơn với bệnh nhân thiếu máu cục bộ gây suy tim.
Các biện pháp phòng ngừa đặc biệt là cần thiết trong việc điều trị bệnh cơ tim. Nhiều loại thuốc (ví dụ, thuốc ức chế ACE và thuốc chẹn thụ thể angiotensin II) nên tránh trong thời kỳ mang thai do nguy cơ gây hại cho thai nhi. Ngoài ra, những loại thuốc này không được khuyến cáo cho phụ nữ đang cho con bú.
Dự phòng thuốc chống đông đường uống đã được sử dụng trong quá khứ để ngăn ngừa huyết khối trong các bệnh lý tim mạch khác. Việc sử dụng thuốc chống đông máu cho bệnh nhân suy giảm chức năng thất trái và nhịp xoang vẫn còn nhiều tranh cãi, và việc sử dụng thuốc chống đông máu trong tình huống này không phải là thường quy. Warfarin hoặc thuốc chống đông đường uống trực tiếp (DOAC) được khuyến cáo khi có chỉ định cụ thể (ví dụ, tắc nghẽn mạch máu não, xác định huyết khối trong buồng tim, rung hoặc cuồng nhĩ.).
Cả Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ và Hướng dẫn của Hiệp hội Tim mạch Châu Âu đều khuyên bạn nên cân nhắc điều trị chống đông ở những bệnh nhân có bệnh lý cơ tim do tình trạng tăng đông máu khi mang thai (1, 2). Tuy nhiên, không nên dùng warfarin trong những giai đoạn nhất định của thời kỳ mang thai do nguy cơ cho thai nhi.
Điều trị nội khoa với suy tim làm giảm nguy cơ rối loạn nhịp, nhưng máy khử rung ICD có thể được sử dụng để ngăn ngừa tử vong do loạn nhịp ở những bệnh nhân suy tim có chức năng tim thấp mặc đù đã được điều trị nội khoa tối ưu. Vì block nhĩ thất trong viêm cơ tim cấp thường hồi phục, nên cấy mấy tạo nhịp vĩnh viên thường không cần thiết. Mặc dù vậy, máy tạo nhịp vĩnh viễn có thể cần thiết với những trường hợp block nhĩ thất kéo dài không hồi phục. Nếu bệnh nhân có khoảng QRS rộng với phân suất tống máu thấp và các triệu chứng nặng mặc dù điều trị nội khoa tối ưu, liệu pháp tái đồng phục tim cần được xem xét.
Ghép tim nên được cân nhắc ở những bệnh nhân suy tim trơ mặc dù đã được điều trị tối ưu. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân ghép tim là những bệnh nhân trẻ, (thường là < 70) được ưu tiên hơn, có chức năng gan thận cho phép, không bị các rối loạn tâm thần kinh, không tăng áp lực động mạch phổi kháng trị. Các thiết bị hỗ trợ thất trái (LVAD) cũng có thể được coi là cầu nối để ghép tim hoặc là liệu pháp đích ở một số bệnh nhân (ví dụ bệnh nhân không đủ điều kiện để ghép tim). Trong liệu pháp đích, LVAD được sử dụng như một liệu pháp vĩnh viễn cho những bệnh nhân suy tim trái tim (thay vì là một biện pháp tạm thời trước khi cấy tim).