Ở phần trước, tôi đã đề cập đến nguyên tắc ĐIỀU TRỊ chung cho bệnh UỐN VÁN và chăm sóc bệnh nhân bị UỐN VÁN. Qua bài này, tôi muốn chia sẻ tiếp đến quí đồng nghiệp về kháng độc tố và quản lý co thắt của bệnh nhân mắc UỐN VÁN.
Kháng độc tố và độc tố
Lợi ích của chất kháng độc tố có nguồn gốc từ con người phụ thuộc vào số lượng tetanospasmin đã liên kết với màng synap - chỉ độc tố tự do mới trung hòa được. Đối với người lớn, TIG 3000 đến 6000 đơn vị tiêm bắp 1 lần duy nhất; khối lượng lớn này có thể được chia nhở và tiêm vào các vị trí riêng biệt xung quanh vết thương. Liều lượng có thể dao động từ 500 đến 6000 đơn vị, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của vết thương, nhưng một số tác giả cho rằng 500 đơn vị là đủ.
Kháng độc tố có nguồn gốc động vật ít được ưa chuộng hơn vì nó không duy trì được nồng độ đủ kháng độc tố trong huyết thanh của bệnh nhân và nguy cơ mác bệnh huyết thanh rất đáng kể. Nếu phải sử dụng huyết thanh ngựa, liều thông thường là 50.000 đơn vị tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch.
Nếu cần, IVIG hoặc kháng độc tố có thể được tiêm trực tiếp vào vết thương, nhưng việc tiêm này không quan trọng bằng việc chăm sóc vết thương tốt.
Nhiễm trùng uốn ván không tạo ra miễn dịch, vì vậy trừ khi lịch sử tiêm chủng cho thấy đã hoàn thành một loạt sơ cấp đầy đủ, bệnh nhân nên được tiêm phòng uốn ván đầy đủ. Kháng độc tố và vắc xin nên được tiêm vào các vị trí cơ thể khác nhau để tránh làm trung hòa văcxin.
Quản lý co thắt cơ của cơ thể bệnh nhân uốn ván
Thuốc được sử dụng để kiểm soát co thắt.
Benzodiazepine là điều trị cơ bản để kiểm soát co cứng và co thắt. Chúng ngăn chặn sự tái hấp thu của một chất ức chế dẫn truyền thần kinh nội sinh, axit gamma-aminobutyric (GABA), ở thụ thể GABAA.
Diazepam có thể giúp kiểm soát cơn co giật, giảm co cứng và gây ngủ. Liều dùng thay đổi và đòi hỏi phải tính toản chuẩn một cách tỉ mỉ và quan sát chặt chẽ. Các trường hợp nặng nhất có thể cần 10 đến 30 mg, tĩnh mạch, 1 đến 4 giờ một lần. Các trường hợp ít nghiêm trọng hơn có thể kiểm soát được với diazepam uống 5 đến 10 mg mỗi 2 đến 4 h. Liều dùng thay đổi theo tuổi:
Trẻ em > 30 ngày và < 5 tuổi: 1- 2 mg tiêm tĩnh mạch chậm hoặc tiêm bắp, lặp lại mỗi 3 đến 4 giờ nếu cần
Trẻ em dưới 5 tuổi: 5 đến 10 mg tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp mỗi 3 đến 4 giờ
Thanh thiếu niên: 5 mg tiêm tĩnh mạch, lặp lại mỗi 2 đến 6 giờ nếu cần (liều cao có thể được yêu cầu)
Người lớn: 5 đến 10 mg tiêm tĩnh mạch mỗi 4 đến 6 h, khi cần thiết tăng lên đến 40 mg/giờ tĩnh mạch chậm
Diazepam được sử dụng rộng rãi nhất, nhưng midazolam (người lớn, 0,1 đến 0,3 mg/kg/giờ tiêm truyền tĩnh mạch, trẻ em 0,06 đến 0,15 mg/kg/h tiêm truyền tĩnh mạch) hòa tan trong nước và được ưu tiên trong điều trị kéo dài. Midazolam giảm nguy cơ nhiễm toan lactic do dung môi propylene glycol, cần thiết cho diazepam và lorazepam, và làm giảm nguy cơ tích tụ các chất chuyển hóa dài có hoạt tính có khả năng gây hôn mê.
Benzodiazepine có thể không ngăn ngừa được phản xạ co thắt và hô hấp có hiệu quả có thể cần đến việc khóa thần kinh cơ bằng vecuronium 0,1 mg/kg tiêm truyền tĩnh mạch hoặc các thuốc gây tê khác và thông khí cơ học. Pancuronium đã được sử dụng nhưng có thể làm trầm trọng thêm các triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật. Vecuronium không có tác dụng phụ đối với tim mạch nhưng lại có tác dụng ngắn. Thuốc có tác dụng lâu hơn (ví dụ như pipecuronium, rocuronium) cũng có hiệu quả, nhưng không có thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên nào được thực hiện.
Baclofen nội bào (a GABAA agonist) có hiệu quả nhưng không có lợi thế rõ ràng so với các thuốc benzodiazepine. Thuốc được tiêm tĩnh mạch liên tục; liều lượng hiệu quả dao động từ 20 đến 2000 mcg/ngày. Một liều thử nghiệm là 50 mcg được cho trước tiên; nếu đáp ứng không đủ, 75 mcg có thể được cho 24 giờ sau đó, và 100 mcg 24 giờ tiếp theo. Bệnh nhân không đáp ứng với 100 mcg không nên dùng truyền kéo dài. Hôn mê và ức chế hô hấp cần hỗ trợ bằng thở máy là những tác dụng phụ có thể xảy ra.
Dantrolene (liều nạp 1,0 đến 1,5 mg/kg tiêm tĩnh mạch tiếp theo là truyền 0,5 đến 1,0 mg/kg mỗi 4 đến 6 giờ trong thời gian ≤ 25 ngày) làm giảm co thắt cơ. Dantrolene dùng bằng đường uống có thể được sử dụng thay cho liệu pháp truyền dịch trong vòng 60 ngày. Nhiễm độc gan và chi phí cao làm cho việc sử dụng thuốc còn hạn chế.