4 phút đọc

2/27/2023

[PHÂN LOẠI + TRIỆU CHỨNG] VIÊM NỘI TÂM MẠC NHIỄM TRÙNG

Viêm nội tâm mạc thường đề cập đến nhiễm trùng nội tâm mạc (tức là, viêm nội tâm nhiễm khuẩn).

VIÊM NỘI TÂM MẠC NHIỄM TRÙNG.png

Phân loại VIÊM NỘI TÂM MẠC NHIỄM TRÙNG

VIÊM NỘI TÂM MẠC NHIỄM TRÙNG có thể ở giai đoạn bán cấp, không có triệu chứng, hoặc là ở giai đoạn cấp tính hơn gây mất bù nhanh chóng do quả tim.

- VIÊM NỘI TÂM MẠC bán cấp do vi khuẩn (SBE), mặc dù khá ác tính, thường phát triển một cách âm thầm và tiến triển chậm (nghĩa là, có thể diễn biến qua hàng tuần đến hàng tháng). Thông thường, không có nguồn lây nhiễm hoặc đường vào một cách thật sự rõ ràng. SBE gây ra phổ biến nhất bởi streptococci (đặc biệt là viridans, microaerophilic, k an khí, và nonenterococcus nhóm D và Enterococci) và ít phổ biến hơn bởi S. aureus, Staphylococcus epidermidis, Gemella morbillorum, Abiotrophia defectiva (trước đây là, Streptococcus defectivus), loài Granulicatella và loài fastidious Haemophilus. SBE thường phát triển trên van bất thường sau khi nhiễm trùng huyết không triệu chứng do bệnh nha chu, nhiễm trùng tiêu hóa, hoặc nhiễm trùng tiết niệu.

- VIÊM NỘI TÂM MẠC cấp tính vi khuẩn (ABE) thường phát triển đột ngột và tiến triển nhanh chóng (nghĩa là, tính bằng ngày). Nguồn lây hoặc đường vào thường có bằng chứng rõ ràng. Khi vi khuẩn rất độc hại hoặc có nguồn tiếp xúc rất lớn với vi khuẩn,VIÊM NỘI TÂM MẠC cấp tính có thể ảnh hưởng đến cả các van tự nhiên. Nó thường gây ra bởi S. aureus, nhóm liên cầu tán huyết nhóm A, phế cầu hoặc lậu cầu.

- VIÊM NỘI TÂM MẠC trên van nhân tạo (PVE) phát triển từ 2 đến 3% bệnh nhân trong vòng 1 năm sau khi thay van và sau đó 0,5%/năm những năm tiếp sau. Phổ biến hơn sau khi thay van động mạch chủ hơn sau khi thay van hai lá và tỷ lệ tương đương nhau giữa van cơ học và sinh học. Nhiễm trùng khởi phát sớm (< 2 tháng sau phẫu thuật) chủ yếu do nhiễm trùng trong quá trình phẫu thuật với vi khuẩn kháng kháng sinh (ví dụ: S. epidermidis, bạch hầu, trực khuẩn coliform) hoặc do nấm (ví dụ: chủng candida, chủng Aspergillus). Nhiễm trùng muộn xảy ra chủ yếu do nhiễm khuẩn với các sinh vật có độc lực thấp trong quá trình phẫu thuật hoặc do các vi khuẩn không triệu chứng thoáng qua, thường là với streptococci; S. epidermidis; bạch hầu; và vi khuẩn âm tính gram âm, chủng Haemophilus, Actinobacillus actinomycetemcomitans, và Cardiobacterium hominis.

Các triệu chứng và dấu hiệu của VIÊM NỘI TÂM MẠC NHIỄM TRÙNG

Các triệu chứng cơ năng và thực thể thay đổi tùy thuộc vào thể bệnh tuy nhiên không đặc hiệu.

-VIÊM NỘI TÂM MẠC bán cấp do vi khuẩn

Ban đầu, các triệu chứng của VIÊM NỘI TÂM MẠC bán cấp do vi khuẩn thường là mơ hồ: sốt nhẹ (< 39°C), vã mồ hôi ban đêm, mệt mỏi, khó chịu, và gầy sút giảm cân. Rét run và đau cơ khớp có thể có. Các triệu chứng và dấu hiệu của hở van có thể là những tiền triệu đầu tiên. Ban đầu, ≤ 15% bệnh nhân có sốt hoặc tiếng thổi, nhưng cuối cùng hầu hết đều có cả hai. Khám lâm sàng có thể bình thường hoặc bệnh nhân có thể có tím tái, thay đổi một tiếng thổi có từ trước hoặc có tiếng thổi mới ở tim và có thể có nhịp tim nhanh.

Tắc động mạch võng mạc có thể gây các tổn thương chảy máu tại võng mạc dạng tròn hoặc oval với vùng trắng trung tâm (Hạt Roth) Sẹo lồi võng mạc có thể gây tổn thương võng mạc quanh hoặc hình bầu dục với các trung tâm nhỏ màu trắng (Roth điểm). Các biểu hiện ngoài da bao gồm đốm xuất huyết (ở thân trên, kết mạc, màng nhầy và các đầu xa), nốt ban đỏ dưới da gây đau trên hoặc gần đầu ngón tay (hạch Osler), ban hoặc sẩn xuất huyết ấn không đau ở lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân (tổn thương Janeway) và xuất huyết dưới móng tay. Khoảng 35% bệnh nhân có ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương (CNS), bao gồm các cơn thiếu máu não thoáng qua, đột quỵ, bệnh não nhiễm độc (do vi thuyên tắc) và nếu vỡ phình động mạch hệ thần kinh trung ương do nấm, áp xe não và xuất huyết dưới nhện. Tắc mạch thận có thể gây đau mạng sườn và đôi khi gây đái máu. Tắc mạch lách có thể gây đau mạng sườn trái. Nhiễm trùng kéo dài có thể gây lách to hoặc ngón tay, ngón chân dùi trống.

- VIÊM NỘI TÂM MẠC cấp tính do vi khuẩn và VIÊM NỘI TÂM MẠC trên nền van nhân tạo

Các triệu chứng và dấu hiệu củaVIÊM NỘI TÂM MẠC nhiễm khuẩn cấp tính và VIÊM NỘI TÂM MẠC van tim nhân tạo tương tự như VIÊM NỘI TÂM MẠC bán cấp do vi khuẩn, nhưng diễn biến nhanh hơn. Sốt là triệu chứng hầu như luôn xuất hiện đầu tiên, và bệnh nhân có biểu hiện nhiễm trùng nhiễm độc; có đôi khi sốc nhiễm trùng phát triển. Tiếng thổi ở tim khoảng từ 50 đến 80% và thường là > 90%. Hiếm khi, VIÊM màng não mủ xảy ra.

- VIÊM NỘI TÂM MẠC ở tim bên phải

Tắc mạch phổi do sepsi có thể gây ho, đau ngực kiểu màng phổi, và đôi khi ho ra máu. Tiếng thổi ở van ba lá tricuspid là điển hình.

 

#Tim mạch#Tài liệu y khoa
Bình luận