NHỒI MÁU CƠ TIM là bệnh vô cùng phổ biến hiện nay.

NHỒI MÁU CƠ TIM cấp là hoại tử cơ tim do tắc nghẽn động mạch vành. Các triệu chứng bao gồm cảm giác khó chịu ở ngực có hoặc không có khó thở, buồn nôn và/hoặc toát mồ hôi. Chẩn đoán bằng điện tâm đồ (ECG) và có hoặc không có các chất chỉ điểm huyết thanh học.
Phân loại NHỒI MÁU CƠ TIM:
Phân loại NHỒI MÁU CƠ TIM dựa vào dựa trên nguyên nhân và hoàn cảnh:
- Loại 1: NHỒI MÁU CƠ TIM tự phát xảy ra khi mảng xơ vữa bị nứt vỡ, xói mòn,loét hoặc tách gây ra huyết khối một hoặc nhiều nhánh mạch vành gây thiếu máu cơ tim
- Loại 2: Thiếu máu cục bộ do nhu cầu oxy tăng (ví dụ, cao huyết áp), hoặc giảm cung (ví dụ như co thắt động mạch vành, tắc nghẽn, hạ huyết áp)
- Loại 3: Liên quan đến đột tử do tim
- Loại 4a: Liên quan đến can thiệp mạch vành qua da (dấu hiệu và triệu chứng của NHỒI MÁU CƠ TIM với giá trị cTn > 5 × phân vị phần trăm thứ 99 URL)
- Loại 4b: Có liên quan đến chứng huyết khối động trong stent động mạch vành
- Loại 5: Liên quan đến ghép bắc cầu động mạch vành (các dấu hiệu và triệu chứng của NHỒI MÁU CƠ TIM với giá trị cTn > 10 × phân vị thứ 99 URL)
Vị trí NHỒI MÁU CƠ TIM
- NHỒI MÁU CƠ TIM ảnh hưởng chủ yếu đến tâm thất trái (LV), nhưng tổn thương có thể lan tới tâm thất phải (RV) hoặc tâm nhĩ.
- NHỒI MÁU CƠ TIM thất phải thường là kết quả của tắc nghẽn động mạch vành phải hoặc động mạch mũ; nó được đặc trưng bởi áp lực làm đầy thất phải cao, thường có sự xuất hiện hở van ba lá nặng và giảm cung lượng tim.
- NHỒI MÁU CƠ TIM thành sau dưới gây ra một số mức độ rối loạn chức năng thất phải ở khoảng một nửa số bệnh nhân và gây ra bất thường huyết động trong 10 đến 15%. Rối loạn chức năng thất phải nên được xem xét ở bất kỳ bệnh nhân nào bị NHỒI MÁU CƠ TIM thành sau dưới và nâng cao áp lực tĩnh mạch cảnh trong với sốc hoặc tụt huyết áp. NHỒI MÁU CƠ TIM thất phải làm biến chứng nhồi máu thất trái tăng đáng kể nguy cơ tử vong.
- Nhồi máu thành trước có xu hướng lớn hơn và dẫn đến tiên lượng xấu hơn so với NHỒI MÁU CƠ TIM thành sau dưới. Chúng thường do tắc nghẽn động mạch vành trái, đặc biệt là ở động mạch liên thất trước
Mở rộng vùng nhồi máu
Nhồi máu có thể là:
- Xuyên thành
Nhồi máu xuyên thành bao gồm toàn bộ chiều dày của cơ tim từ màng ngoài tim và nội mạc tử cung thường có đặc trưng bởi sóng Q bất thường trên ECG.
- Không xuyên thành
Nhồi máu không xuyên thành (bao gồm nhồi máu dưới nội mạc) không lan rộng qua thành thất và chỉ gây ra những bất thường ở đoạn ST và sóng T (ST-T). NHỒI MÁU CƠ TIM dưới nội mạc thường liên quan đến một phần ba cơ tim, nơi mà sức căng cơ tim trên tường cao nhất và lưu lượng máu của cơ tim là dễ bị tổn thương nhất đối với những thay đổi tuần hoàn. Nhồi máu này có thể theo sau bởi hạ huyết áp kéo dài.
Do không thể xác định chính xác được độ sâu hoại tử của vùng cơ tim hoại tử, các trường hợp nhồi máu thường được phân loại là STEMI hoặc NSTEMI theo sự có mặt hoặc không có độ cao của đoạn ST chênh lên hoặc sóng Q trên ECG. Lượng cơ tim bị phá hủy có thể được ước tính sơ bộ theo mức độ và thời gian men CK tăng cao hoặc bởi mức đỉnh của troponin thường được đo.
NHỒI MÁU CƠ TIM ST không chênh (NSTEMI, MI dưới nội mạc) là hoại tử cơ tim (chứng minh bằng men tim trong máu; troponin I hoặc troponin T và CK sẽ được nâng cao) mà không có sự chênh lên đoạn ST cấp tính. ECG thay đổi như chênh xuống đoạn ST, đảo ngược sóng T, hoặc cả hai có thể có mặt.
NHỒI MÁU CƠ TIM ST chênh lên (STEMI, MI xuyên thành) là hoại tử cơ tim có thay đổi ECG cho thấy đoạn ST chệnh lên và không đảo ngược bởi nitroglycerin. Troponin I hoặc troponin T, và CK tăng lên.